THỂ PHÁI CỦA CỰU
THỂ THI
(kì 3)
THỂ THƠ THỜI NGUỴ TẤN NAM BẮC TRIỀU
Chính
Thuỷ thể 正始体
Chính Thuỷ 正始 là niên hiệu của
Nguỵ phế đế Tào Phương 曹芳thời
Tam Quốc (năm 240 – năm 249). Trong khoảng thời gian này, xuất hiện các thi
nhân như Kê Khang 嵇康, Nguyễn Tịch 阮籍, Sơn Đào 山涛, Hướng Tú 向秀, Nguyễn Hàm 阮咸. Trong đó người
có thơ lưu truyền lại chỉ có Nguyễn Tịch và Kê Khang. Lưu Hiệp 刘勰 trong “Văn tâm
điêu long – Minh thi thiên” 文心雕龙 - 明诗篇cho rằng:
Kê chỉ thanh tuấn,
Nguyễn chỉ dao thâm.
嵇旨清峻, 阮旨遥深
(Chỉ ý của Kê
Khang thanh cao uy nghi, chỉ ý của Nguyễn Tịch sâu xa)
Do bởi chính trị đương thời hắc ám, văn nhân thường gặp nguy hiểm bị giết chết, cho nên nét đặc sắc trong thơ của họ không dám tiếp xúc cuộc sống hiện thực, chỉ có thể dùng thủ pháp ẩn tàng, kí thác cảm xúc đau buồn. Nguyễn Tịch có 18 bài thơ “Vịnh hoài thi” 咏怀诗lưu truyền lại, đa phần là “ngũ ngôn thi”, có địa vị nhất định trong thi sử. Thơ của Kê Khang truyền đời có 53 bài, chủ yếu là “tứ ngôn thi”, cũng rất nổi tiếng.
Thái
Khang thể 太康体
Thái Khang 太康là niên hiệu của Tấn Vũ Đế 晋武帝 (năm 280 – năm 289). Thi nhân thời bấy giờ, có Tả Tư 左思, Phan Nhạc 潘岳, Trương Tái 张载, Trương Hiệp 张协, Lục Cơ 陆机, Lục Vân 陆云v.v… Từ thời kì này, thơ trổi dậy bắt đầu chú trọng việc tu từ, trau chuốt từ cú, trái với thi phong Hán Nguỵ chất phác. Đời Lương thời Nam triều. thi luận gia Chung Vinh 锺嵘gọi thời kì này là thời kì “phục hưng” 复兴, nhưng thơ của nhiều người trong số đó, thành tựu không hề cao.
Đào
thể 陶体
Đào thể 陶体là chỉ thể thơ của thi nhân Đào Tiềm 陶潜 cuối thời Đông Tấn, đầu thời Lưu Tống 刘宋 (tức Đào Uyên Minh 陶渊明). Ông sở trường về thơ ngũ ngôn tả cảnh điền viên, cách điệu thanh hoà tự nhiên, tuy là kế thừa truyền thống thơ thời Hán Nguỵ, nhưng lại dựng lên một ngọn cờ mới. Thi phong của ông, ảnh hưởng đến các thi nhân thời thịnh Đường như Vương Duy 王维, Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Trừ Quang Nghĩa 儲光義và thời trung Đường như Vi Ứng Vật 韦应物, Liễu Tông Nguyên 柳宗元. Thơ tả cảnh điền viên của đời sau đa phần chịu ảnh hưởng Đào thi.
Nguyên
Gia thể 元嘉体
Nguyên Gia 元嘉là niên hiệu của Tống Văn Đế 宋文帝 thời Nam triều (năm 424 – năm 453). Thi nhân thời kì này, người có thành tựu tương đối cao có Tạ Linh Vận 谢灵运, Bảo Chiếu 鮑照và Nhan Diên Chi 颜延之. Nhan Diên Chi và Tạ Linh Vận nổi tiếng ngang nhau, người đời gọi là “Nhan Tạ” 颜谢. Thơ của họ, tương đối chú trọng vẻ đẹp hình thức. Tạ Linh Vận thích du sơn ngoạn thuỷ. Trong thơ ông có một số lượng lớn thơ miêu tả sơn thuỷ, thi phái sơn thuỷ chính là do ông khai sáng. Nhan Diên Chi chỉ làm thơ ngũ ngôn, ngôn ngữ trau chuốt khó hiểu, thích dùng điển, phong cách không cao, làm thành khuynh hướng chung của thi nhân thời Nguyên Gia. Bảo Chiếu sở trường thơ thất ngôn và nhạc phủ, thơ của ông nhiệt tình phóng khoáng, tạo nên một cảm xúc bất bình, là kiệt xuất nhất đương thời.
Tề
Lương thể 齐梁体
Gọi là Tề Lương 齐梁 thể là gọi thay thi phong của cộng đồng thi nhân hai đời Tề và Lương, trên thực tế cũng bao gồm cả Vĩnh Minh thể 永明体 (1) đời Tề. Đặc điểm là truy cầu hình thức, chuộng cái đẹp, rất chú trọng thanh luật, coi nhẹ nội dung, trái ngược với thi phong chất phác thời Hán Nguỵ, nhân đó mà người đời sau gọi là “bệnh”. Nhưng ở một phương diện khác, do bỏi thi của của thi nhân thời Tề Lương bắt đầu chú trọng sự hiệp điệu của thanh điệu bằng trắc, hơn nữa đa phần dùng hình thức đối cú đưa vào thơ, điều đó đã thúc đẩy thi ca Trung Quốc về kĩ xảo viết đã có sự phát triển tiến bộ, đồng thời làm tiền đạo về hình thức cho thơ cận thể đời Đường.
Cung
thể 宮体
Cung thể 宮体 khởi nguồn từ Giản Văn Đế Tiêu Cương 简文帝萧纲nhà Lương thời Nam triều. Ông và các văn thần cung đình của ông thích viết về sự cuộc sống cung đình hủ hoá, hoặc là những tình cảm tư tưởng đồi phế, ngoài ra có loại ngâm phong lộng nguyệt, nội dung trống rỗng, phong cách dâm mị, hình thành nghịch lưu của chủ nghĩa hình thức trong thi đàn. Kinh qua hai triều Trần và Tuỳ đến thời kì Đường Thái Tông Lí Thế Dân 唐太宗李世民, đều là những tháng ngày cung thể thịnh hành.
Chú
của nguyên tác
1-“Vĩnh Minh thể” 永明体 và “Tề Lương thể” 齐梁体 tuy cùng là thể thơ chú trọng hình thức coi nhẹ nội dung, nhưng giữa cả hai có sự khu biệt: loại trước chú trọng “thanh bệnh” 声病, loại sau chú ý sự hoa mĩ của văn từ, cũng chính là từ việc chú trọng hiệp điệu thanh luật phát triển đến sự truy cầu sự hoa lệ từ tảo.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/12/2025
Nguồn
ĐỘC THI THƯỜNG THỨC
读诗常识
Tác giả: Ngô Trượng
Thục 吴丈蜀
Thượng Hải Cổ tịch
xuất bản xã, 1984
