Dịch thuật: Thể phái của cựu thể thi (kì 1)

THỂ PHÁI CỦA CỰU THỂ THI

(kì 1) 

          Về cách nói “thi thể thi phái” 诗体诗派, từ thời Đường trở về trước chưa có, từ cuối thời Bắc Tống, Lữ Bản Trung 呂本中trong “Tây Giang thi xã tông phái đồ” 西江诗 陈与义社宗派图 đã lấy Hoàng Đình Kiên 黄庭坚, Trần Sư Đạo 陈师道, Trần Dữ Nghĩa làm Tông, từ đó xác lập danh xưng Tây Giang thi phái 西江诗派, làm tiền đạo cho các thi luận gia đời sau đối với việc phân định thể phái. Thi luận gia Nghiêm Vũ 严羽cuối thời Nam Tống trong tác phẩm “Thương lãng thi thoại” 沧浪诗话của mình, dựa theo thời đại, tác giả và sự khác nhau về thi phong đã đem thơ phân thành hơn 50 thể phái, các thi thoại gia sau đó lại đem thơ của 3 đời Nguyên, Minh, Thanh phân làm một số thể phái.

          Trong những thể phái này, chỉ có dựa theo tác giả và tác phong để phân loại là tương đối hợp lí, nếu dựa theo thời đại mà phân loại, trong đó có loại bao gồm các phong cách khác nhau, là hoàn toàn không thoả đáng. Chẳng qua cổ nhân đã phân loại như thế, danh xưng của thể phái lại truyền bá sâu rộng, không thể tuỳ tiện thay đổi, cho nên ở đây khi giới thiệu một loại thể phái, cũng chỉ có thể căn cứ vào cách nói của tiền nhân, chỉ có điều là với địa phương cần nói rõ thêm.

          Do bởi thể phái của thơ có nhiều, không thể trình bày hết được, dưới đây chỉ chọn một bộ phận thể phái tương đối nổi tiếng và có ảnh hưởng sâu rộng.

THỂ THƠ THỜI TIÊN TẦN 

          Tao thể 骚体.

          Tao thể 骚体vốn bắt nguồn thi ca Sở từ 楚辞sản sinh ở đất Sở vào trước sau thời Chiến Quốc khoảng năm 300 trước công nguyên. Khuất Nguyên 屈原 -  thi nhân nước Sở đương thời, trong thơ mà ông sáng tác, có một thiên gọi là “Li tao” 离骚, thế đời sau, có người sau trực tiếp gọi “Sở từ” 楚辞 là “Tao” , như Lưu Hiệp 刘勰 người thời Lương, thời kì Nam Bắc triều, trong “Văn tâm điêu long” 文心雕龙, tác phẩm lí luận văn nghệ mà ông sáng tác đã đem chuyên luận về tên “Sở từ” 楚辞 gọi là “Biện Tao” 辨骚, và như Chiêu Minh thái tử Tiêu Thống 昭明太子萧统 nhà Lương, trong bộ “Văn tuyển” 文选 mà ông biên soạn, cũng đã đem Sở từ xếp vào loại “Tao” . Bắt đầu từ đó, loại thể tài thi ca Sở từ dùng “Tao thể” 骚体để thay thế, cũng chính là, phàm thơ mà dùng hình thức Sở từ để làm đều gọi là “Tao thể” 骚体.

          Hình thức của “Tao thể” 骚体thi có mấy đặc điểm:

          1-Cú thức không chỉnh tề, số chữ ở mỗi câu có thể dài có thể ngắn.

          2-Số câu của mỗi bài không hạn chế, có thể nhiều có thể ít.

          3-Dùng vận không nghiêm khắc, tức có thể dùng vận cũng có thể không dùng vận, trong một bài thơ, đã có câu dùng vận, lại có thể ở một số câu khác không có vận.

          4-Giữa câu hoặc cuối câu thêm những chữ như (hề), (ta) hoặc (chỉ). Theo cách nói thông thường, phàm tác phẩm thêm trợ từ (hề), (ta) (1), bất phân thời gian trước sau, bất luận nội dung tác phẩm cùng tác giả có phải là người nước Sở hay không, đều gọi là “Tao thể” 骚体. 

Chú của nguyên tác

1-Trong những tác phẩm của người đời sau dùng hình thức Sở từ, thông thường chỉ dùng (hề) hoặc (ta) làm ngữ trợ từ,”Tao thể” 骚体 dùng ngữ trợ từ (chỉ) không còn được thấy nhiều.

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 20/12/2025 

Nguồn

ĐỘC THI THƯỜNG THỨC

读诗常识

Tác giả: Ngô Trượng Thục 吴丈蜀

Thượng Hải Cổ tịch xuất bản xã, 1984

Previous Post Next Post