Sáng tác: Tương phùng hạnh vận - Minh quân lương tướng tao phùng dị (HCH)

 

相逢幸運

明君良相遭逢易

才子佳人際遇難

英雄相會與嬋娟

只一見嬋娟情已也

琵琶有幸逢司馬

君子多情更可憐

算來才子結佳人

而紅葉赤繩爲夙債

千里隔冰山桂海

有情緣月老必殷勤

柳花又遇東君

百年佳偶朱陳稱緣

英雄何處不江山

TƯƠNG PHÙNG HẠNH VẬN

Minh quân lương tướng tao phùng dị,

Tài tử giai nhân tế ngộ nan.

Anh hùng tương hội dữ thiền quyên,

Chỉ nhất kiến thiền quyên tình dĩ dã.

Tì bà hữu hạnh phùng Tư Mã,

Quân tử đa tình cánh khả lân.

Toán lai tài tử kết giai nhân,

Nhi hồng diệp (1) xích thằng (2) vi túc trái (3).

Thiên lí cách băng sơn quế hải (4),

Hữu tình duyên, nguyệt lão tất ân cần (5).

Liễu hoa hựu ngộ Đông quân (6),

Bách niên giai ngẫu Châu Trần (7) xứng duyên.

Anh hùng hà xứ bất giang sơn. 

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 20/11/2025 

Chú của người dịch

1-Hồng diệp 紅葉: tức “lá đỏ” hoặc “lá thắm”.

       Theo Lưu hồng kí 流红记

          Thời Đường Hi Tông 唐僖宗, có một thư sinh tên Vu Hựu 于佑, trời chiều chậm bước trên đường phố trong hoàng thành. Trời đã vào thu từ lâu, ánh nắng chiếu xiên, lá rụng bay tơi tả, khiến Vu Hựu không ngăn được lòng thương cảm khi ở nơi đất khách. Vu Hựu đến bên ngự hà định rửa tay, bỗng thấy một chiếc lá vừa lớn vừa đỏ từ trong cung thành trôi ra khiến Vu Hựu chú ý. Trên lá dường như có vết mực đen, Vu Hựu liền vớt chiếc lá lên, bên trên quả nhiên có đề 4 câu thơ:

Lưu thuỷ hà thái cấp

Thâm cung tận nhật nhàn

Ân cần tạ hồng diệp

Hảo khứ đáo nhân gian

流水何太急

深宫尽日闲

殷勤谢红叶

好去到人间

(Nước chảy sao mà gấp

Trong thâm cung cả ngày nhàn

Ân cần cảm tạ lá đỏ

Đi đến với nhân gian)

          Vu Hựu mang chiếc về chỗ ở bỏ vào trong rương, thường lấy ra ngắm nghía ngâm tụng, ngày càng cảm thấy chiếc lá đỏ đẹp đáng yêu, thơ lại thanh tân sâu sắc. Vu Hựu nghĩ rằng: Lá đỏ từ trong cấm đình cung thành trôi ra, thơ đề bên trên nhất định là của một người đẹp trong cung viết. Ta phải cất kĩ, đó cũng là vật kỉ niệm trong hồi ức tốt đẹp của ta ở tương lai. Do bởi một khoảng thời gian Vu Hựu ngày đêm nghĩ suy về chiếc lá, nên dung mạo gầy gò tiều tuỵ. Sau khi bạn bè biết được khuyên Vu Hựu nên quên đi. Một đêm nọ, Vu Hựu nằm trên giường suốt đêm không ngủ được, trời vừa mới sáng, liền ra ngoài tìm một chiếc lá vừa lớn vừa đỏ, bên trên đề 2 câu thơ:

Tằng văn diệp thượng đề hồng oán

Diệp thượng đề thi kí dữ thuỳ?

曾闻叶上题红怨

叶上题诗记与谁

(Từng nghe trên lá đề ai oán

Trên lá đề thơ gởi đến ai?)

Vu Hựu đem lá đến trước cung thành phía trên ngự hà thả cho lá trôi lại vào trong cung thành.

          Về sau, Vu Hựu nhiều năm tham gia khoa cử khảo thí nơi kinh thành nhưng đều không đỗ, bèn đến nhà Hàn Vịnh 韩泳tại phủ Hà Trung 河中 (trị sở nay là huyện Vĩnh Tế 永济 tỉnh Sơn Tây 山西) giữ chức văn thư, tiền tài dần dư dả, nhưng không còn muốn ứng thí nữa. Qua mấy năm, Hàn Vịnh triệu kiến Vu Hựu, nói rằng:

          - Hơn 30 cũng nữ trong cung của hoàng đế sẽ được ra khỏi cung, để mỗi người tự tìm lấy chống, trong số đó có một người tên Hàn Phu Nhân 韩夫人cùng tộc với ta. Cô ta tiến cung đã nhiều năm, hiện sẽ từ cung cấm ra đến ở nhà ta. Ta nghĩ đến anh đã qua 30 tuổi mà chưa có vợ, còn độc thân, cũng không có quan chức gia sản gì, cuộc sống thanh khổ cô đơn. Hàn Phu Nhân hiện nay, bạc riêng không dưới ngàn lượng, cô ta vốn là con gái của một nhà thanh bạch, tuổi cũng vừa 30, tư dung xuất chúng. Ta kết hợp hai người, gả cô ấy cho anh, anh thấy thế nào?

          Lúc này Vu Hựu từ chỗ ngồi liền đứng dậy, quỳ xuống bái tạ Hàn Vịnh, nói rằng:

          - Tôi là một thư sinh nghèo, ở nhờ nơi nhà ngài, một ngày không thể báo đáp ân đức của ngài. Hiện như vậy đối với tôi quả là hậu ái, nhận lời có chút hổ thẹn.

          Thế là Hàn Vịnh sai thủ hạ sắp xếp lễ nghi hôn thú, cử hành hôn lễ cho Vu Hựu và Hàn Phu Nhân.

          Sau hôn lễ, Hàn thị phát hiện chiếc lá đỏ trong rương của Vu Hựu, vô cùng kinh ngạc, nói rằng:

          - Bài thơ trên chiếc lá này là do thiếp làm, phu quân làm sao mà có được vậy?

          Vu Hựu đem chuyện lá đỏ kể lại tỉ mỉ cho Hàn thị nghe. Hàn thị lại nói  rằng:

          - Thiếp nơi ngự hà trong cung thành cũng nhặt được một chiếc lá đỏ bên trên có đề thơ , không biết là ai bên ngoài cung viết?

          Hàn thị mở rương của mình lấy ra một chiếc lá đỏ. Vu Hựu nhận qua nhìn thơ đề bên trên liền nói rằng:

          - Đây là của ta viết đấy!

          Cả hai vợ chồng mỗi người cầm một chiếc lá đỏ nhìn nhau mà không nói lời nào, cảm khái muôn phần, không ngăn được nước mắt tuôn rơi.

https://baike.baidu.com/item/%E7%BA%A2%E5%8F%B6%E9%A2%98%E8%AF%97/4151429

          Trong tác phẩm văn học, “lá thắm” dùng để chỉ duyên chồng vợ.

Xích thằng 赤繩: tức “chỉ hồng”.  Trong Tục huyền quái lục 续玄怪录của Lí Phúc Ngôn李复言đời Đường có thuật câu chuyện:

          Vi Cố 韦固 người Đỗ Lăng 杜陵, lúc nhỏ đã mồ côi. Một hôm đến trọ ở quán phía nam Tống Thành 宋城, gặp một dị nhân đang ngồi trên bậc thềm tựa vào cái túi mà kiểm sách dưới ánh trăng. Vi Cố hỏi, người nọ đáp rằng:

          - Đó là sách chép việc hôn nhân trong thiên hạ.

          Vi Cố lại hỏi trong túi đựng vật gì? Người nọ đáp:

          - Những sợi dây đỏ, dây đỏ này dùng để buộc chân đôi vợ chồng lại, sống gắn kết với nhau. Tuy là cừu thù, hoặc sang hèn cách biệt, hoặc cách xa tận chân trời, người Ngô kẻ Sở, khi đã buộc nhất định không thể tránh được.

          (“Thành ngữ đại từ điển”. Bắc Kinh: Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ti, 2004)

          Trong truyền thuyết dân gian Trung Quốc, ông lão dưới trăng (tức “nguyệt hạ lão nhân” 月下老人) dùng dây đỏ này buộc chân đôi nam nữ khiến họ trở thành vợ chồng. Thành ngữ “xích thằng hệ túc” 赤绳系足 (dây đỏ buộc chân), hoặc “xích thằng”, “dây đỏ”, “dây tơ hồng” “chỉ hồng” ... ý nói việc hôn nhân do nguyệt lão mai mối. Cũng dùng để chỉ duyên chồng vợ.

3-Túc trái 夙債: nợ kiếp trước.

4-Băng sơn quế hải 冰山桂海: núi băng, biển quế, ý nói phương bắc phương nam, chỉ sự xa xôi cách trở.

          Băng sơn 冰山: phương bắc khí hậu lạnh, nước thường đóng băng thành khối, lớn như quả núi. Mượn “băng sơn” để chỉ phương bắc.

          Quế hải 桂海: Trung Quốc cổ đại gọi phương nam xa xôi là quế hải. Tên gọi này bắt nguồn từ đặc trưng địa lí phương nam, đặc biệt là vùng Lĩnh Nam 嶺南, nơi đây quế mọc thành rừng. Đời Tần thiết lập “Quế Lâm quận” 桂林郡.Từ  “Quế hải” 桂海thường được mượn dùng để chỉ phương nam.

          Nguyên văn trong sách chép nhầm là “băng sơn quá hải”, ở phần chú thích ghi rõ là “Băng sơn Quế hải”.

5-Ân cần 殷勤: niềm nở, chu đáo, nhiệt tình.

6-Đông quân 東君: vị thần cai quản mùa xuân, thường dịch là “chúa xuân”.

7-Châu Trần: Tên một thôn ở huyện Cổ Phong 古豐Từ Châu 徐州. Thôn này chỉ có hai họ, hai họ này nối đời kết làm thân gia với nhau. Đời sau dùng “Châu Trần” 朱陳 ví hai họ kết làm thân gia.

          Bạch Cư Dị 白居易 có bài Châu Trần thôn 州陳村, trong bài có câu:

Từ Châu Cổ Phong huyện

Hữu thôn viết Châu Trần

................

Nhất thôn duy lưỡng tính

Thế thế vi hôn nhân

.................

徐州古豐縣

有村曰朱陳

.............

 

一村唯兩姓

世世為婚姻

....................

Huyện Cổ Phong ở Từ Châu

Có một thôn tên là Châu Trần

.................

Trong thôn chỉ có hai họ

Nối đời kết thân với nhau

....................

http://fanti.dugushici.com/ancient_proses/21333

          Thành ngữ “Châu Trần chi hảo” 朱陳之好 hoặc “Châu Trần cho mục” 朱陳之睦 xuất phát từ bài thơ này. 

Bài này tạm dịch từ bài “Duyên gặp gỡ” của Nguyễn Công Trứ.

DUYÊN GẶP GỠ

Minh quân lương tướng tao phùng dị (1)

Tài tử giai nhân tế ngộ nan (2)

Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên (3)

Trong nhất kiến thuyền quyên như đã (4)

Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã (5)

Quân tử đa tình cánh khả lân (6)

Nọ mấy người tài tử giai nhân

Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại

Dầu nghìn dặm băng sơn quá hải (7)

Đã tình duyên xe lại cũng nên gần

Liễu hoa vừa gặp chúa xuân

Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn (8)

Anh hùng hà xứ bất giang sơn (9) 

Chú thích

1-Vua giỏi và tướng tài gặp nhau dễ.

2-Trai tài gái sắc gặp nhau khó.

3-Thuyền quyên: từ cũ, chỉ người phụ nữ có nhan sắc.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên (Kiều)

4-Nhất kiến: mới gặp nhau lần đầu. Như đã: như đã mặn mà.

5-Tỳ bà: chỉ người gẩy đàn tỳ bà. Tư mã: chức quan, ở đây chỉ Tư mã Giang Châu, tức Bạch Cư Dị. Cả câu ý nói: Người gẩy đàn tỳ bà ấy may mắn mới gặp ông Tư mã Giang Châu. Lấy ý từ bài Tỳ bà hành nổi tiếng của nhà thơ Bạch cư Dị đời Đường (772 – 846) khi bị giáng chức làm Tư mã Giang Châu đã mượn cảnh ngộ người đàn bà chơi đàn tỳ bà lưu lạc nơi góc bể chân trời để tỏ nỗi niềm tâm sự của mình. Bài này được Phan Huy Vịnh dịch ra tiếng Việt, bài dịch cũng nổi tiếng như bài chữ Hán.

6-Quân tử là người đa tình nên lòng thương xót càng sâu sắc.

7-Băng sơn Quế hải: Ở Bắc Băng Dương, trên mặt biển, băng thường kết lại thành núi nên gọi là Băng sơn. Biển Nam Hải gọi là Quế hải vì ở đấy sản xuất ra thứ quế tốt. Câu này ý nói chốn xa xôi.

8-Châu Trần: Ở Phong huyện, tỉnh Giang Tô, có thôn Châu Trần, trong thôn có họ Châu và họ Trần đời đời kết thông gia với nhau.

Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn (Kiều)

          Ý nói việc kết hôn xứng đôi đẹp lứa.

9-Đối với người anh hùng đâu cũng là giang sơn.

(“Nguyễn Công Trứ - Tác giả, tác phẩm, giai thoại” Nguyễn Viết Ngoạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCH, 2002)

Previous Post Next Post