諍臣
諍臣自古有之
敢于直諫扶持国君
國昌盛諍臣亦重
無諍臣國運衰微
居安時勸諫要思危
政務必幫其從寬恕
善諍魏徵千古譽
弄讒王黼百年污
休使民對待有如無
而以道事君乎盡力
秉剛直改君之過失
督其行富教惠於民
諍臣兩字隨身
Tránh thần (1) tự cổ hữu
chi
Cảm hồ trực gián phù trì quốc
quân
Quốc xương thịnh tránh thần diệc
trọng
Vô tránh thần quốc vận suy vi
Cư an thời khuyến gián yếu tư
nguy (2)
Chính vụ tất bang (3) kì
tùng khoan thứ (4)
Thiện tránh Nguỵ Trưng (5)
thiên cổ dự
Lộng sàm Vương Phủ (6)
bách niên ô
Hưu (7) sử dân đối đãi
hữu như vô
Nhi dĩ đạo sự quân hồ tận lực
Bỉnh cương trực cải quân chi quá
thất
Đốc kì hành “phú giáo” (8)
huệ ư dân
“Tránh thần” lưỡng tự tuỳ thân.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 09/11/2025
1-Tránh
thần 諍臣: bề tôi cương trực dám can gián quốc
quân,
Tránh
諍 : có nghĩa là dám trực ngôn can
gián.
Xuất xứ từ Hiếu kinh 孝經, chương thứ 15 Gián
tránh chương 諫諍章:
Tăng
Tử viết: “Nhược phù từ ái, cung kính, an thân, dương danh, tắc văn mệnh hĩ. Cảm
vấn tử tùng phụ lệnh, khả vị hiếu hồ?”
Tử viết:”Thị hà ngôn dư? Thị hà ngôn dư? Tích giả thiên tử
hữu tránh thần thất nhân, tuy vô đạo, bất thất kì thiên hạ. Chư hầu hữu tránh
thần ngũ nhân, tuy vô đạo, bất thất kì quốc. Đại phu hữu tránh thần tam nhân,
tuy vô đạo, bất thất kì gia. Sĩ hữu tránh hữu, tắc thân bất li vu lệnh danh. Phụ
hữu tránh tử, tắc thân bất hãm vu bất nghĩa. Cố đương bất nghĩa, tắc tử bất khả
dĩ bất tránh vu phụ, thần bất khả dĩ bất tránh vu quân. Cố đương bất nghĩa tắc
tránh chi, tùng phụ chi lệnh, hựu yên đắc vi hiếu hồ?”
曾子曰: “若夫慈爱, 恭敬, 安亲, 扬名, 则闻命矣. 敢问子从父令, 可谓孝乎?”
子曰: “是何言与? 是何言与? 昔者天子有诤臣七人, 虽无道, 不七其天下. 诸侯有诤臣五人, 虽无道, 不七其国. 大夫有诤臣三人, 虽无道不七其家. 士有诤友, 则身不离于令名. 父有诤子, 则身不陷于不义. 故当不义, 则子不可以不诤于父, 臣不可以不诤于君. 故当不义则诤之, 从父之令, 又焉得为孝乎?”
(Tăng Tử nói rằng: “Những đạo hiếu như
từ ái, cung kính, làm cho cha mẹ được yên vui, dương danh với đời, thì đã nghe
thầy dạy qua rồi. Nay con mạo muội được hỏi, làm con nghe theo mệnh lệnh của
cha, có thể được gọi là hiếu chăng?”
Khổng Tử bảo rằng: “Sao lại nói vậy?
sao lại nói vậy? Ngày trước thiên tử có mấy bề tôi dám can gián, tuy là vô đạo,
nhưng không mất thiên hạ. Chư hầu có mấy bề tôi dám can gián, tuy vô đạo, nhưng
không mất nước. Đại phu có mấy bề tôi dám can gián, tuy vô đạo, những cũng
không mất nhà. Kẻ sĩ có bạn dám can ngăn, thì bản thân không mất đi danh dự.
Cha có con dám can ngăn, thì bản thân không rơi vào chỗ bất nghĩa. Cho nên khi
thấy làm điều bất nghĩa, thì con không thể không can ngăn cha, bề tôi không thể
không can gián vua. Vì thế khi thấy làm điều bất nghĩa thì phải can gián, chỉ
biết nghe theo mệnh lệnh của cha, thì sao được gọi là hiếu được?”)
(https://zhidao.baidu.com/question/535660312.html)
Cho nên: Quân hữu tránh thần, phụ hữu tránh tử 君有諍臣, 父有諍子: Khi vua làm điều bất nghĩa có bề
tôi dám can gián; khi cha làm điều bất nghĩa có con dám can ngăn.
2-Cư an
tư nguy 居安思危: lúc bình yên phải nghĩ đến lúc hiểm
nguy.
Trong “Tả truyện – Tương Công thập nhất niên” 左傳 - 襄公十一年có ghi:
“Thư” viết: ‘Cư an tư nguy’. Tư
tắc hữu bị, hữu bị vô hoạn.
“书” 曰: ‘居安思危’. 思則有備, 有備無患.
(Trong “Kinh Thư” nói rằng: ‘Cư an tư nguy’. Nghĩ đến
lúc hiểm nguy thì có phòng bị, có phòng bị thì không lo.)
3-Bang 幫: giúp.
4-Khoan
thứ 寬恕: khoan dung, rộng lượng.
5-Nguỵ
Trưng 魏徵 (580 – 643): tự Huyền Thành 玄成, người huyện Khúc Dương 曲阳 quận Cự
Lộc 巨鹿 (nay là phụ cận thôn Cổ Thành 鼓城 thành
phố Tấn Châu 晋州 tỉnh Hà Bắc 河北). Ông là chính trị gia, tư tưởng
gia, văn học gia, sử học gia kiệt xuất thời Sơ Đường, từng giữ chức Gián nghị đại
phu 諫議大夫với nhiệm vụ can gián vua không để vua
mắc sai lầm. Nguỵ Trưng dám trực ngôn bất huý, vì lợi ích của quốc gia và nhân
dân, rất được Lí Thế Dân 李世民tín nhiệm. Nguỵ Trưng được coi
là vị gián quan nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, được khen tặng là
“Thiên cổ tránh thần” 千古諍臣.
6-Vương
Phủ 王黼 (1079 – 1126): nguyên danh là Vương Phủ 王甫, tự Tương Minh 將明, người Tường Phù 祥符 Khai
phong 开封 (nay là thành phố Khai Phong 开封tỉnh Hà Nam 河南), Tể tướng cuối thời Bắc Tống.
Vương Phủ có khẩu tài, tài trí nhưng không có học thức, xảo ngôn rất giỏi xu nịnh,
là một trong “lục tặc” 六賊 (6 gian thần được Tống Huy Tông
宋徽宗sủng tín, gồm: Thái Kinh 蔡京, Vương
Phủ 王黼, Đồng Quán 童貫, Chu Miễn 朱勔, Lí Ngạn 李彥, Lương Sư Thành 梁师成). Vương Phủ câu kết với nhóm Thái Kinh vơ vét tài sản của
dân, làm bại hoại triều chính, khiến Bắc Tống dần đi đến chỗ diệt vong.
7-Hưu 休: chớ, đừng.
8-Phú giáo 富教: điển xuất ở thiên Tử Lộ 子路 trong Luận ngữ 論語 :
Tử thích Vệ, Nhiễm Hữu bộc. Tử viết: ‘Thứ hĩ
tai!’ Nhiễm Hữu viết: ‘Kí thứ hĩ, hựu hà gia yên?’ Viết: ‘Phú chi.’ Viết: ‘Kí
phú hĩ: ‘Hựu hà gia yên?’ Viết: ‘Giáo chi.’
子適衛, 冉有仆. 子曰: ‘庶矣哉!’ 冉有曰: ‘既庶矣, 又何加焉?’ 曰: ‘富之.’ 曰: ‘既富矣, 又何加焉?’ 曰: ‘教之.’
(Khổng Tử đi đến nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe. Khổng Tử bảo rằng: ‘Dân đông đúc thay!’ Nhiễm Hữu nói rằng: ‘Dân đã đông rồi thì nên làm gì?’ Khổng Tử bảo rằng: ‘Nên làm cho dân giàu có lên.’ Nhiễm Hữu lại hỏi: ‘Dân đã giàu rồi thì nên làm gì nữa?’ Khổng Tử bảo rằng: ‘Nên giáo dục cho dân.”)
Tạm dịch
TRÁNH THẦN
Từ xưa đã có tránh thần,
Giúp vua dựng nước hết lòng khuyên can.
Nước xương thịnh tránh thần cũng trọng,
Không tránh thần quốc vận suy vi.
Lúc bình yên khuyên nghĩ đến lúc
nguy,
Với chính sự giúp thực thi khoan thứ.
Giỏi can gián Nguỵ Trưng hiển trứ,
Khéo sàm ngôn Vương Phủ ô danh.
Đừng để dân coi có cũng như không,
Cứ dốc sức thờ vua theo đúng đạo.
Giữ cương trực lỗi vua, thần phải báo.
Đốc thúc vua lo “phú giáo” cho dân.
“Tránh thần” hai chữ theo thân.
