Dịch thuật: Chữ "gia" 家 và chữ "lao" 牢

 

CHỮ “GIA” VÀ CHỮ “LAO”

          Hình dạng của chữ (gia) và chữ (lao) tương tự, phương pháp cấu hình cũng tương đồng, nhưng ý nghĩa lại hoàn toàn khác nhau. (gia) cho con người một cảm giác ấm áp, còn (lao) thì hoàn toàn tương phản, nó cho con người một cảm giác lạnh lẽo.

          Chữ (lao) lúc ban đầu là nơi để nhốt trâu, cũng chính là chuồng trâu mà hiện nay chúng ta nói đến, nhìn từ cấu hình của chũ chúng ta có thể thấy được. Thời cổ, trâu ngoài dùng để cày ruộng ra, còn dùng để tế tự. Nơi nhốt trâu để dùng  trong tế tự gọi là (lao). Thời cổ còn có “thái lao” 太牢và “thiếu lao” 少牢khác nhau. Trong tế tự mà có trâu gọi là “thái lao” 太牢, không có trâu chỉ có heo và dê gọi là “thiếu lao” 少牢. Trâu nhốt trong chuồng để chuẩn bị dùng trong tế tự được gọi là “hi ngưu” 牺牛. Hi ngưu bình thường nuôi rất nghiêm cẩn tôn kính, khí tế chỉ một dao hiến tế, giết không thương lượng. Trang Tử 庄子không muốn tiếp nhận lễ vật của Sở Uy Vương 楚威王để ra làm quan, nhân vì ông xem việc làm quan giống như con hi ngưu trong chuồng để chuẩn bị tế thần, tuy nuôi cho béo mập, nhưng không hề có tự do. Ông muốn tự do, cho nên thà làm một con trâu nhỏ tuy cô đơn nhưng có thể tự do tự tại vui chơi trong vũng bùn dơ.

          Do bởi ý nghĩa  “hi ngưu” 牺牛 nhốt trong lao không có tự do, về sau dẫn đến nghĩa mới “giám ngục” 监狱, chỉ có điều nhốt trong đó không phải là trâu mà là con người. Con người bị nhốt trong đó không có tự do, không có tự do thì muốn có được tự do, cho nên con người bị nhốt trong ngục sẽ luôn động não tìm cách vượt ngục. Để đề phòng vượt ngục, “lao” phải hết sức kiên cố, cho nên (lao) lại có ý nghĩa kiên cố. (lao) từ chỗ nhốt trâu đến chỗ nhốt người, tự hình không biến đổi, nhưng ý nghĩa lại phát sinh biến hoá rất lớn.

          Chữ (gia) cũng gần giống như chữ (lao), về ý nghĩa cơ bản chưa biến đổi, luôn biểu thị nơi cư trú của con người, chỉ là cấu hình vì sao lại có chữ (thỉ: con heo) thì xưa nay có nhiều thuyết khác nhau. Hứa Thận 许慎đời Hán cho là (thỉ) là chữ tỉnh lược hình dạng của chữ (gia: heo đực). (gia) là thanh phù biểu hình, nhưng thuyết này tương đối khiên cưỡng, cho nên người đời sau lại có mấy thuyết khác nhau, ở đây xin nêu ra 2 thuyết.

          -Thứ 1: cho rằng (gia) nguyên là chỗ ở của heo, sau dẫn đến nghĩa giả tá là chỗ ở của con người, là kết quả chuyển đổi nghĩa chữ. Thuyết này và tình hình diễn biến phái sinh của (lao) na ná nhau.

          -Thứ 2: cho rằng chữ (thỉ) trong chữ (gia) là chữ (hợi) cổ văn. Ý nghĩa của (hợi) theo “Thuyết văn” 说文 là hai người, tức một nam một nữ, nhân đó chữ (gia) này mang ý nghĩa một nam một nữ và sinh con. Thuyết này lấy kim mà định cho cổ, thành phần ức đoán chủ quan quá nhiều.

          Hiện nay có khuynh hướng cho rằng (gia) là xã hội sản xuất vật chất mà nghề chăn nuôi đã sơ bộ hình thành, trong (gia) có (thỉ), nói rõ người thời thượng cổ chăn nuôi là bắt đầu từ heo. Đương thời, heo đối với cuộc sống của con người tựa hồ đã có ý nghĩa tương đối trọng yếu, vừa là đối tượng làm thức ăn chủ yếu, cũng là phù hiệu mang tính tiêu chí của sản phẩm thặng dư và tích luỹ tài sản, cho nên (thỉ) đương thời trở thành tượng trưng cơ bản của (gia), từ đó mà hình thành yếu tố quan trọng cấu tạo nên chữ (gia). Điều này nói rõ, kinh tế gia đình đương thời đã có mối quan hệ tương đối mật thiết với tài sản tư hữu là vật nuôi.

          Có người cho rằng, thời cổ có một loại nhà hàng rào có hai tầng trên và dưới, tầng trên người ở, tầng dưới nuôi súc vật như heo, dê … Đặc điểm của loại nhà này chính là người cùng súc vật tạp cư, cho nên (gia) và (thỉ) liền với nhau. Hiện nay ở nông thôn còn thấy gần nhà ở của con người có xây chuồng heo. Cách bố trí của loại nhà ở này và nguyên lí tạo chữ của (gia) cũng tương thông.

          Hai chữ (gia) và (lao) về cấu hình tương tự, nghĩa cổ đều có liên quan nuôi súc vật, nghĩa hiện nay lại chỉ liên quan đến con người. Nhưng nhìn từ nội hàm, (lao) là chỗ nhốt người, còn (gia) là nơi con người cư trú, cùng là chỗ có người, nhưng cảm giác lại hoàn toàn khác nhau.

Huỳnh Chương Hưng

Quy nhơn 09/11/2025

Nguồn

HÁN TỰ LÍ ĐÍCH TRUNG QUỐC

汉字里的中国

Tác giả: Trần Bích Diệu 陈璧耀

Thượng Hải: Thượng Hải Viễn đông xuất bản xã, 2017

Previous Post Next Post