CHỮ “THỊ” 市 VÀ CHỮ “PHẮT” 巿
Trong quyển giải thuyết văn tự “Hán
tự nguyên lai giá ma hữu thú” 汉字原来这么有趣, ở hình vẽ kèm theo khi phân tích giải thích chữ 巾 (cân), đã xếp 3 chữ
市 (thị), 帚 (trửu), 帛 (bạch) thuộc bộ (cân).
Ở 3 chữ này trong đó chỉ có chữ 帛
(bạch) thuộc bộ 巾 (cân), còn 市 (thị) và 帚 (trửu) không thuộc
bộ 巾 (cân). Càng kì lạ
hơn, sách này đã chú âm chữ 市 là shì (âm Bắc Kinh hiện đại), nhưng lại
dùng theo nghĩa trong “Thuyết văn” 说文, đó hoàn toàn là mũ của 市 (thị) nhưng 巿 (phất) đội, có sự
nhầm lẫn.
市 (thị) và 巿 (phất) không phải
là một chữ, chữ trước đọc là shì, chữ sau đạo là fú,
chữ trước theo bộ 冂 (quynh), chữ sau mới
theo bộ 巾 (cân). Hai chữ này
bất luận là tự hình hay tự âm hoặc tự nghĩa đều chẳng liên quan gì.
Hứa Thận giải thích chữ 巿 (phất) là:
Là 韠 (tất: cái bịt đầu
gôi). Thời cổ dùng tấm vải che phía trước thân. Thiên tử dùng “chu phất” 朱巿, chư hầu dùng “xích
phất” 赤巿, đại phu dùng “thông
hành” 葱衡. Thuộc 巾 (cân), giống hình
dạng liền với sợi dây. Phàm những gì thuộc 巿 (phất) đều theo 巾 (cân). Trong triện
văn 巿 theo 韋 (vi) và 犮(bạt).
Nhân loại tảo kì nguyên không có sự
khu biệt với động vật, đều mình trần loả thể. Về sau mới có lá cây hoặc da thú để
che phần dưới của thân, sau nữa dùng vải, chính là đã có hình chế của 巿 (phất). Tác dụng của
巿 (phất) lúc đầu chỉ là dùng để che “chỗ riêng tư” và hai đầu
gối, bên trên dùng dùng sợi dây buộc cố định ở chỗ eo, cho nên cấu hình của chữ
巿 (phất) theo 巾 (cân) theo 一 (nhất). Giống như
hình chế này, đại để tương tự chư chiếc tạp dề hiện nay. Tạp dề chỉ che phía
trước không che phía sau, 巿
(phất) thời cổ cũng chỉ “ý tế tiền nhi dĩ” 衣蔽前而已 (mặc để che phía
trước). Sở dĩ che phía trước có lẽ liên quan đến việc đi đứng của nhân loại, Nhân
vì đứng thẳng, “chỗ riêng tư” lộ ra, sự xuất hiện của 巿 (phất), có lẽ chủ
yếu che và bảo vệ “chỗ riêng tư” để tránh bị va chạm gây thương tích, nhất là đối
với nam giới. Cho nên tác dụng của 巿 (phất) là để che.
韠 (tất) chính là 蔽 (tế), âm và nghĩa
đều giống với 蔽 (tế). Thời kì đầu,
tiên dân có lẽ dùng da thú để làm 巿 (phất), cho nên trong triện văn, “tùng vi” 从韋(theo 韋 ) đó là tả thực.
Kì thực, chữ 巿 tảo kì phải là chữ
芾có bộ thảo đầu.
Trong “Thi kinh – Tiểu nhã – Thái thúc” 诗经- 小雅 - 采菽có câu:
Xích phất tại cổ.
赤芾在股
(Xích phất ở chỗ bắp
đùi)
Trong Trịnh tiên 郑箋có ghi rằng:
Phất, thái cổ tế tất
chi tượng dã.
芾大古蔽膝之象也
(Phất giống như vật
để che đầu gối thời cổ)
“Chu phất” 朱巿của thiên tử là chiếc phất màu đỏ tươi, về
sau viết là 朱绂, trở thành danh từ
chỉ thay cho cao quan, như trong bài “Tái kinh Hồ Thành huyện” 再经胡城县của
Đỗ Tuân Hạc 杜荀鹤 có hai câu nổi tiếng:
Kim niên huyện tể
gia chu phất
Tiện thị sinh linh
huyết nhiễm thành.
今年县宰加朱绂
便是生灵血染成
(Năm nay quan huyện
được gia thêm chu phất
Đó là đều do máu của
sinh sinh nhuộm thành)
“Gia chu phất” 加朱绂ở đây là thăng
quan, Chữ 绂 nguyên là tục tự,
về sau trở thành chính tự, nên 3 chữ 巿,
芾, 韍cơ bản không dùng.
Những chữ theo chữ 巿 (phất), trừ chữ 芾 (phất) ra, thường
gặp có chữ 肺 (phế). Chữ này thường
đem phần bên phải viết nhầm thành chữ 市
(thị). Chữ 肺 (phế) lấy 巿 (phất) làm thanh
phù, thanh mẫu tương đồng với 巿
(phất), không liên quan gì đến âm đọc của chữ 市 (thị). Ngoài ra còn có chữ 沛 (bái), chữ 斾 (bái), đều có
thanh phù theo chữ 巿 (phất).
市 (thị) là chỗ tập
trung tiến hành giao dịch, có tường thấp vây quanh, tường bao là ranh giới cho
nên theo bộ 冂 (quynh), thuộc chữ
hình thanh.
市 (thị) thời cổ có tường
vây quanh, cho nên chữ theo bộ 冂 (quynh). Tự hình
nhìn từ giáp cốt văn, chữ 市 (thị) theo 止
(chỉ) theo 冂 (quynh), ý nghĩa là
đi đến chố trao đổi mua bán. Trong kim văn, dưới chữ 冂 (quynh) thêm chữ 兮 (hề), càng rõ ý nghĩa trong chợ huyên náo
tiếng mua bán.
市 (thị) cũng là chữ có công năng tổ hợp, như chữ 闹 (náo) trong “huyên náo” chính là chữ hội ý từ chữ (thị), lấy 市 (thị) làm nghĩa phù. Còn chữ hình thanh 柿 (thị) và 铈 (thị) đều lấy 市 (thị) làm thanh phù; và chữ 肺 (phế) chữ 沛(bái) lấy 巿 (phất) làm thanh phù, về âm đọc rõ ràng là khác nhau.
Huỳnh Chương Hưng
Quy nhơn 10/11/2025
Nguồn
HÁN TỰ LÍ ĐÍCH
TRUNG QUỐC
汉字里的中国
Tác giả: Trần Bích
Diệu 陈璧耀
Thượng Hải: Thượng
Hải Viễn đông xuất bản xã, 2017
