鳳棲梧
內院梧桐枝待鳳
花謝花開
輒復霜輕重
何處去來朝暮望
空枝不聽簫聲弄
直諫賢良誰與共
安定金甌
北闕尋梁棟
求得諍臣乎若夢
來兮遠處梧桐鳳
PHỤNG THÊ NGÔ
Nội viện
ngô đồng chi đãi phụng
Hoa tạ
hoa khai
Triếp
phục sương khinh trọng
Hà xứ
khứ lai triêu mộ vọng
Không chi bất thính tiêu thanh lộng
Trực
gián hiền lương thuỳ dữ cộng
An định
kim âu
Bắc
khuyết tầm lương đống
Cầu đắc
tránh thần hồ nhược mộng
Lai hề! viễn xứ ngô đồng phụng.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 10/11/2025
Kim
âu 金瓯: Âu vàng .
Lương
Vũ Đế Tiêu Diễn 梁武帝萧衍
thời
Một
hôm, Vũ Đế Tiêu Diễn vừa đi bộ vừa tự nói:
Đất nước của ta ngày nay giống như một chiếc
âu vàng đựng rượu, không bị khuyết tổn, thiên hạ lại rất thái bình, tiếp nhận Hầu
Cảnh quy hàng, có gì mà không thể chứ? Nếu nhiều người bàn rối rắm ra, sẽ hối hận
không kịp.
Về
sau, người ta dùng từ “kim âu” để ví quốc thổ hoàn chỉnh.
(Theo
Hướng Tư 向斯:
“Hoàng triều điển cố kỉ văn” 皇朝典故纪闻)
Trần
Nhân Tông (Việt Nam) cũng đã viết:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
社稷兩回勞石馬
山河千古奠金甌
(Trên nền Xã Tắc hai lần ngựa đá
phải mệt nhọc
Nhưng núi sông nghìn đời được đặt
vững như âu vàng.)
Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tí (18-4-1288), sau chiến thắng Bạch Đằng, triều đình đem các tướng giặc bị bắt làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông). Tại đây, vua Trần Nhân Tông trông thấy chân mấy con ngựa đá đều lấm bùn (vì trước đó giặc Nguyên đã phá Chiêu Lăng và định đập bỏ ngựa đi mà chưa kịp), tức cảnh ngâm hai câu thơ này.
(Nguồn: “Thơ văn Lý Trần”, NXB
Khoa học xã hội, 1977)
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng
(Bản dịch của Trần Trọng Kim)
Lương đống 梁棟: rường và cột, chỉ bề tôi tài
giỏi gánh vác trách nhiệm với đất nước.
Tránh thần 諍臣: bề tôi cương trực dám can gián
quốc quân.
Tránh 諍 : có nghĩa là dám trực ngôn can
gián.
Xuất
xứ từ Hiếu kinh 孝經, chương thứ 15 Gián
tránh chương 諫諍章:
Tăng Tử viết: “Nhược phù từ ái, cung kính,
an thân, dương danh, tắc văn mệnh hĩ. Cảm vấn tử tùng phụ lệnh, khả vị hiếu hồ?”
Tử viết:”Thị hà ngôn dư? Thị hà ngôn
dư? Tích giả thiên tử hữu tránh thần thất nhân, tuy vô đạo, bất thất kì thiên hạ.
Chư hầu hữu tránh thần ngũ nhân, tuy vô đạo, bất thất kì quốc. Đại phu hữu
tránh thần tam nhân, tuy vô đạo, bất thất kì gia. Sĩ hữu tránh hữu, tắc thân bất
li vu lệnh danh. Phụ hữu tránh tử, tắc thân bất hãm vu bất nghĩa. Cố đương bất
nghĩa, tắc tử bất khả dĩ bất tránh vu phụ, thần bất khả dĩ bất tránh vu quân. Cố
đương bất nghĩa tắc tránh chi, tùng phụ chi lệnh, hựu yên đắc vi hiếu hồ?”
曾子曰: “若夫慈爱, 恭敬, 安亲, 扬名, 则闻命矣. 敢问子从父令, 可谓孝乎?”
子曰: “是何言与? 是何言与? 昔者天子有诤臣七人, 虽无道, 不七其天下. 诸侯有诤臣五人, 虽无道, 不七其国. 大夫有诤臣三人, 虽无道不七其家. 士有诤友, 则身不离于令名. 父有诤子, 则身不陷于不义. 故当不义, 则子不可以不诤于父, 臣不可以不诤于君. 故当不义则诤之, 从父之令, 又焉得为孝乎?”
(Tăng
Tử nói rằng: “Những đạo hiếu như từ ái, cung kính, làm cho cha mẹ được yên vui,
dương danh với đời, thì đã nghe thầy dạy qua rồi. Nay con mạo muội được hỏi,
làm con nghe theo mệnh lệnh của cha, có thể được gọi là hiếu chăng?”
Khổng
Tử bảo rằng: “Sao lại nói vậy? sao lại nói vậy? Ngày trước thiên tử có mấy bề
tôi dám can gián, tuy là vô đạo, nhưng không mất thiên hạ. Chư hầu có mấy bề
tôi dám can gián, tuy vô đạo, nhưng không mất nước. Đại phu có mấy bề tôi dám
can gián, tuy vô đạo, những cũng không mất nhà. Kẻ sĩ có bạn dám can ngăn, thì
bản thân không mất đi danh dự. Cha có con dám can ngăn, thì bản thân không rơi
vào chỗ bất nghĩa. Cho nên khi thấy làm điều bất nghĩa, thì con không thể không
can ngăn cha, bề tôi không thể không can gián vua. Vì thế khi thấy làm điều bất
nghĩa thì phải can gián, chỉ biết nghe theo mệnh lệnh của cha, thì sao được gọi
là hiếu được?”)
(https://zhidao.baidu.com/question/535660312.html)
Cho nên: Quân hữu tránh thần, phụ hữu tránh tử 君有諍臣, 父有諍子: Khi vua làm điều bất nghĩa có bề tôi dám can gián; khi cha làm điều bất nghĩa có con dám can ngăn.
