HOÀNG QUỲNH
Hoàng Quỳnh 黄琼 (năm 86 – năm 164) tự Thế Anh 世英, Tể tướng thời Hoàn Đế 桓帝, một trong những hiền tướng thời Đông Hán. Mất vì bệnh, hưởng niên 79 tuổi.
Hoàng Quỳnh 黄琼 người An Lục 安陆 Giang Hạ 江夏 (nay là phía tây bắc An Lục 安陆tỉnh Hồ Bắc 湖北). Phụ thân Hoàng Phiên 黄番là danh thần thời Đông
Hán, nổi tiếng hiếu kính phụ mẫu, bác học đa tài, giỏi văn chương, giữ chức Thái
thú quận Nguỵ 魏, năm 106 bị bệnh và mất tại nhà.
Hoàng Quỳnh từng
vì phụ thân làm quan mà được nhậm làm Thái tử xá nhân 太子舍人, nhưng ông xưng bệnh
từ tạ. Sau khi phụ thân bệnh và qua đời, ông cư tang nhiều năm, nhiều lần cự
tuyệt quan phủ đến mời. Thời Thuận Đế 顺帝, sau nhiều lần công
khanh tiến cử và dưới nghiêm lệnh của phủ quan, ông không thể không ứng chiếu vào
kinh, được nhậm làm Nghị lang 议郎, sau dần thăng
Thượng thư Bộc dạ 尚书仆射 (1). Thời kì đầu, ông từng theo phụ thân đang giữ
chức Thượng thư lệnh 尚书令mà ở tại Thượng thư
đài 尚书台nhiều năm, nên rất quen công việc. Sau khi đảm
nhiệm chức Thượng thư Bộc dạ, làm việc thông đạt, biện luận tinh xác, trước sau
dâng tấu tiến cử nhân tài, khoan hình giản pháp, cải thiện tù phạm đãi ngộ.
Sau, Hoàng Quỳnh được
thăng làm Thượng thư lệnh 尚书令, ngoại nhậm làm
Thái thú quận Nguỵ 魏, rồi làm Thái thường
太常, vào cung làm Thị giảng 侍讲 cho hoàng đế. Năm
151, được thăng làm Tư không 司空. Đương thời, Lương
Kí 梁冀chuyên quyền, Hoàn Đế bị bức, mệnh cho các đại
thần thương nghị phong tặng Lương Kí. Các đại thần như Hồ Quảng 胡广, Chúc Điềm 祝恬 đều ra sức nịnh khen
công của Lương Kí như công của Chu Công 周公thời Tây Chu, nên
phong sơn xuyên, thổ địa, nô bộc. Riêng Hoàng Quỳnh lại cho rằng phong tặng như
thế là vượt quá, nên để ông ấy giống như Đặng Vũ 邓禹, chỉ phong đất đai
4 huyện là được. Hoàn Đế tiếp nhận kiến nghị đó, khiến Lương Kí vô cùng bất mãn.
Chẳng bao lâu, Lương Kí mượn cớ giáng ông xuống là Thái bộc 太仆.
Năm 153, Hoàng Quỳnh
được Hoàn Đế bái làm Tư đồ 司徒, năm sau, lại
chuyển nhậm Thái uý 太尉. Năm 158, nhân vì
phát sinh nhật thực, ông bị miễn chức, khởi dụng làm Đại tư nông 大司农. Năm sau, Lương Kí bị trừ khử, ông lại được bái nhậm Thái uý một
lần nữa, trở thành đứng đầu công khanh. Ông dũng cảm đàn hặc hơn 10 viên quan địa
phương tham tang uổng pháp, đồng thời lần lượt trừng phạt họ, cho đi đày, được sự
ca tụng của thiên hạ.
Hoàn Đế sau khi lợi
dụng hoạn quan Đan Siêu 单超trừ khử ngoại thích
Lương Kí, phong 5 hoạn quan như Tả Quán 左悺, Từ Hoàng 徐璜… tước Hầu. Năm người này lại kết bè thao túng triều chính, hình
thành hoạn quan chuyên quyền, Hoàng Quỳnh đau xót nhưng vô lực đối phó với họ, khó
mà khuông chính triều cương, nên xưng bệnh về nhà, không tham dự triều chính. Năm
161, một lần nữa ông bị miễn trừ chức Thái uý, sau lại được khởi dụng làm Tư không
司空. Mùa thu, trong nước có động đất, ông lại vì sự kiện đó mà bị bãi
chức.
Năm 164, Hoàng Quỳnh bệnh và qua đời. Trước khi mất, ông dâng thư lên Hoàn Đế tự thuật lịch trình gian nan mà triều Hán từ lúc kiến lập đến nay và những bài học được mất, khuyến gián Hoàn Đế tín dụng trung lương, xa kẻ gian nịnh. Hoàn Đế truy tặng ông là Xa kị Tướng quân 车骑将军, ban thuỵ hiệu là Trung Hầu 忠侯. Danh sĩ bốn phương nghe tin Hoàng Quỳnh mất đều kéo đến tham gia lễ táng, số người đông lên đến 6, 7 ngàn.
Chú của người dịch
1-Về âm đọc của chữ 射
Theo Khang Hi tự điển,
chữ 射
có 4 âm đọc: XẠ, DẠ, THẬT, DỊCH
- Âm XẠ bính âm là shè. Đường vận 唐韻 phiên thiết là THẦN CHÁ 神柘; Tập vận 集韻 phiên
thiết là THỰC DẠ 食夜.
Vận hội 韻會,
Chính vận 正韻 phiên thiết là THẦN DẠ 神夜. Đều có âm đọc là 蛇 (xà) khứ thanh.
- Âm DẠ, bính âm là yè. Quảng vận 廣韻 phiên thiết là DƯƠNG TẠ 羊謝; Tập vận集韻, Vận hội韻會, Chính vận韻會 phiên
thiết là DẦN TẠ 夤謝.
Đều có âm là 夜
(dạ). Có ghi rằng:
Bộc dạ, Tần quan
danh
僕射秦官名
(Bộc dạ là tên chức quan triều Tần)
- Âm THẬT, bính âm là shè. Quảng vận廣韻, Tập vận 集韻 phiên
thiết là THỰC DIỆT 食亦, âm 實 (thật).
- Âm DỊCH, bính âm là yì. Quảng
vận 廣韻 phiên
thiết là DƯƠNG ÍCH 羊益; Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 韻會 phiên thiết là DI ÍCH 夷益, âm 睪 (dịch).
(Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã,
2002, trang 233).
Với chức quan 僕射
/ 仆射, các tài liệu đều bính
âm là pú yè ,
chú âm phù hiệu là ㄆㄨˊ ㄧㄝˋ, như vậy đọc là “bộc
dạ”.
Trong “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu cũng có ghi:
-Âm
“xạ”: bắn, tìm kiếm, soi …..
-Âm
“dạ”: như “bộc dạ” 僕射,
chức quan bộc dạ nhà Tần.
-Âm “dịch”: chán, “vô dịch” 無射không chán.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 11/11/2025
Nguyên tác Trung văn
HOÀNG QUỲNH
黄琼
Trong quyển
TRUNG QUỐC LỊCH ĐẠI TỂ
TƯỚNG LỤC
中国历代宰相录
Chủ biên: Dương Kiếm
Vũ 杨剑宇
Thượng Hải văn hoá xuất
bản xã, 1999
