Sáng tác: Quân đạo - Tái chu phúc chu do thuỷ dã (HCH)

 

君道

載舟覆舟由水也

君舟民水古今同

爲黔黎謀利不居功

遠讒佞近賢臣道理

揚六言以開民智

屏四惡而服民心

勤政乎大小事親臨

民遭難君即尋慰勞

不可用蠟言和梔貌

信城狐社鼠總非安

莫同尸位素餐 

QUÂN ĐẠO

Tái chu phúc chu do thuỷ dã,

Quân chu dân thuỷ (1) cổ kim đồng.

Vị kiềm lê (2) mưu lợi bất cư công,

Viễn sàm nịnh cận hiền thần đạo lí.

Dương lục ngôn (3) dĩ khai dân trí,

Bính tứ ác (4) nhi phục dân tâm.

Cần chánh hồ đại tiểu sự thân lâm,

Dân tao nạn quân tức tầm uý lạo.

Bất khả dụng lạp ngôn (5) hoà chi mạo (6),

Tín thành hồ xã (7) thử tổng phi an.

Mạc đồng thị vị tố xan (8). 

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 03/11/2025

1-Quân chu dân thuỷ 君舟民水:

          Trong Khổng Tử gia ngữ - Lục bản đệ thập ngũ 孔子家语 - 六本第十五 có đoạn:

孔子曰: 舟非水不行, 水入舟则没. 君非民不治, 民犯上则倾. 是故君子不可不严也, 小人不可不整一也.

          Khổng Tử viết: Chu phi thuỷ bất hành, thuỷ nhập chu tắc một. Quân phi dân bất trị, dân phạm thượng tắc khuynh. Thị cố quân tử bất khả bất nghiêm dã, tiểu nhân bất khả bất chỉnh nhất dã.

          (Khổng Tử bảo rằng:

          - Thuyền mà rời khỏi nước thì thuyền sẽ không thể đi được, nước mà vào thuyền thì thuyền sẽ chìm. Vị quân chủ mà xa rời dân thì không thể trị lí đất nước, dân mà phạm thượng gây loạn thì sẽ bị diệt vong. Cho nên, quân tử không thể không nghiêm cẩn,  tiểu nhân không thể không chấn chỉnh.)

          Khái niệm “quân chu dân thuỷ” 君舟民水 do Khổng Tử đề xuất, Tuân Tử đã phát triển thêm. Trong Tuân Tử - Vương chế 荀子 - 王制 có đoạn:

          Quân giả, chu dã; thứ nhân giả, thuỷ dã. Thuỷ tắc tái chu, thuỷ tắc phúc chu.

          君者, 舟也; 庶人者, 水也. 水则载舟, 水则覆舟.

          (Vị quân chủ là thuyền; bách tính là nước. Nước có thể chở thuyền, mà nước cũng có lật thuyền)

          Nguyễn Trãi trong bài Quan hải 關海 cũng đã viết:

Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ

覆舟始信民猶水

(Làm lật thuyền mới tin rằng dân giống như nước)

2-Kiềm lê 黔黎: chỉ bách tính nhân dân, hợp xưng của hai từ “kiềm thủ” 黔首và “lê dân” 黎民.

          Kiềm thủ 黔首: Trong “Lễ kí – Tế nghĩa” 禮記 - 祭義có câu:

明命鬼神, 以爲黔首則

Minh mệnh quỷ thần, dĩ vi kiềm thủ tắc.

(Minh xác về mệnh của quỷ thần, để làm quy phạm cho dân sùng bái)

          Trịnh Huyền 郑玄chú rằng:

黔首, 谓民也

Kiềm thủ, vị dân dã

(Kiềm thủ là gọi dân)

Khổng Dĩnh Đạt 孔穎达 sớ rằng:

          黔首, 谓万民也. , 谓黑也. 凡人以黑巾覆头, 故谓之黔首.

          Kiềm thủ, vị vạn dân dã. Kiềm, vị hắc dã. Phàm nhân dĩ hắc cân phú đầu, cố vị chi kiềm thủ.

          (Kiềm thủ là nói muôn dân. Kiềm là đen. Phàm người ta dùng khăn đen để vấn đầu, nên gọi là kiềm thủ.)

          Năm 221 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng phân thiên hạ làm 36 quận, đặt các chức Thú , Uý , Giám , đổi gọi dân là “kiềm thủ” 黔首.

          Lê dân 黎民: chỉ bình dân phổ thông. Trong Thư – Nghiêu điển - 尧典 có chép:

黎民於变时雍

Lê dân ư biến thời ung.

(Dân chúng được sự giáo hoá mà trở nên hoà mục)

          Khổng truyện 孔传ghi rằng:

, 众也

Lê, chúng dã.

(Lê là dân chúng)

          Thời cổ, chữ (lê) thông với chữ (lê) có nghĩa là màu đen.

Tương truyền, Viêm Đế 炎帝 bị Xi Vưu 蚩尤đánh đuổi chạy đến Trác Lộc 涿鹿, cầu viện Hiên Viên Hoàng Đế 轩辕黄帝. Cả hai kết thành liên minh cùng đánh Xi Vưu 蚩尤, và đã đánh bại được Xi Vưu. Người xưa đem số người trong liên minh quân sự này gọi là “bách tính” 百姓, đem người Cửu Lê 九黎 bắt được, gọi họ là “lê dân” 黎民, để phân biệt với “bách tính” 百姓.

https://baike.baidu.com/item/%E9%BB%94%E9%A6%96/22372044

3-Lục ngôn 六言: điển xuất từ “Luận ngữ - Dương Hoá” 论语 - 阳货.

          Tử viết: Do dã. nhữ văn lục ngôn lục tế hĩ hồ?

          Đối viết: ‘Vị dã.’

          ‘Cư, ngô ngứ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kì tế dã ngu. Hiếu trí bất hiếu học, kì tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kì tế dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kì tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kì tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kì tế dã cuồng.’

          子曰: ‘由也,女闻六言六蔽矣乎?’

          对曰: ‘未也.’

          , 吾语女. 好仁不好学, 其蔽也愚. 好智不好学, 其蔽也荡. 好信不好学,其蔽也贼. 好直不好学, 其蔽也绞. 好勇不好学,其蔽也乱. 好刚不好学, 其蔽也狂.’

          (Khổng Tử hỏi rằng: ‘Này anh Do, anh đã nghe qua sáu đức và sáu điều che lấp chưa?

          Tử Lộ đáp rằng: ‘Thưa chưa.’

          ‘Ngồi đó, ta nói cho con nghe. Ham chuộng đức nhân mà không ham học, thì bị che lấp bởi sự ngu muội. Ham chuộng hiểu biết mà không ham học, thì bị che lấp bởi tính phóng đãng. Ham chuộng điều trung tín mà không ham học, thì bị che lấp bởi sự tổn hại. Ham chuộng ngay thẳng mà không ham học thì bị che lấp bởi sự hà khắc khô cứng. Ham chuộng dũng mãnh mà không ham học, thì bị che lấp bởi dễ gây rối phạm thượng. Ham chuộng sự cứng cõi mà không ham học, thì bị che lấp bởi tính cuồng bạo.’)

4-Bính tứ ác 屏四惡: điển xuất từ “Luận ngữ - Nghiêu viết” 论语 - 尧曰:

          Tử Trương vấn vu Khổng Tử: ‘Như hà tư khả dĩ tùng chính hĩ?.

          Tử viết: ‘Tôn ngũ mĩ, bính tứ ác, tư khả dĩ tùng chính hĩ,’

          ………………

          Tử Trương viết: ‘Hà vị tứ ác?’

          Tử viết: ‘Bất giáo nhi sát vị chi ngược. Bất giới thị thành vị chi bạo. Mạn lệnh trí kì vị chi tặc. Do chi dữ nhân, xuất nạp chi lận, vị chi hữu ti.’

          子张问于孔子: ‘如何斯可以从政矣?’

          子曰: ‘尊五美, 屏四恶, 斯可以从政矣.’

          …………………..

          子张曰: ‘何谓四恶?’

          子曰: ‘不教而杀谓之虐. 不戒视成谓之暴. 慢令致期谓之贼. 犹之与人也, 出纳之吝, 谓之有司.’

          (Tử Trương hỏi Khổng Tử: ‘Như thế nào thì có thể đảm đương chính sự?

          Khổng Tử đáp rằng: ‘Tôn trọng năm mĩ đức, trừ bỏ bốn ác chính (chính sự ác hiểm), thì có thể đảm đương chính sự.’

          ………………

          Tử Trương hỏi: ‘Như thế nào là bốn ác chính?’

          Khổng Tử bảo rằng: ‘Đối với một việc nào đó, chưa dạy bảo dân mà đã ra tay sát hại họ thì đó gọi là tàn độc. Không sắp đặt răn bảo trước, chỉ cốt ở chỗ mong cho có thành tích thì đó gọi là hung bạo. Mệnh lệnh ban xuống chậm trễ mà đột ngột bảo tới kì hạn thì đó gọi là hại dân. Khen thưởng người tốt, cấp cho tài vật mà lại so đo bủn xỉn, thì đó gọi là kẻ nhỏ mọn ti tiện.’)

5-Lạp ngôn 蠟言: “Lạp” là sáp, dùng để bôi lên đồ vật cho bóng láng. “Lạp ngôn” ý nói đánh bóng ngôn từ.

6-Chi mạo 梔貌: “Chi” là một loại cây, trái của nó khi chín được dùng để nhuộm vàng đồ vật. “Chi mạo” ý nói làm cho diện mạo tươi đẹp.

          Thành ngữ “chi mạo lạp ngôn” 梔貌蠟言xuất xứ từ bài tản văn “Tiên cổ” 鞭賈 của Liễu Tông Nguyên 柳宗元đời Đường.

          “Có một người ra chợ bán một cây gậy. Người ta hỏi giá, ông ta ra giá phải là 50.000. Trả xuống 50, ông ta khom người giả vờ cười; trả 500, ông ta giả vờ hơi giận; trả 5000, ông ta giả vờ cả giận, phải là 50.000 mới bán.

          Một anh nhà giàu nọ đến chợ, bỏ ra 50.000 mua lấy, cầm đến khoe với ta. Nhìn nơi đầu gậy cong cong, nhìn chỗ tay cầm xiên xiên không thẳng. Các vân sớ trên gậy trước sau nối nhau không hài hoà, chỗ đốt cây dường như mục, dùng móng tay ấn vào, nó lõm sâu; nâng gậy lên, nó nhẹ tênh tênh.

          Ta hỏi: ‘Ông mua cây gậy như thế mà không tiếc 50000 sao?’

          Anh ta đáp rằng: “Tôi thích sắc vàng và cái bóng láng của nó. Hơn nữa người bán nói rằng …..”

          Ta bèn bảo tiểu đồng nấu nước sôi đem đến tưới lên cây gậy, gậy liền co rút và khô lại, lộ ra sắc trắng. Hoá ra sắc vàng là dùng trái cây chi nhuộm lên, bóng láng là lấy sáp bôi lên. Anh nhà giàu nọ không vui, nhưng vẫn dùng đến ba năm. Ngày nọ anh ra đi ra phía đông thành, tranh luận cùng với người khác ở Trường Lạc pha. Hai con ngựa đá nhau, thế là dùng gậy quất, gậy gãy làm năm sáu khúc. Ngựa vẫn cứ đá nhau, anh ta ngã xuống đất bị thương. Nhìn cây gậy, mặt anh ta đờ ra, chất của cây gậy như bụi đất, không thể dùng được nữa.

          Cách dùng trái cây chi nhuộm vàng, lấy sáp đánh bóng như hiện nay mà nói, dùng hai kĩ xảo đó để cầu được triều đình tuyển dụng, nếu chức quan thích hợp với năng lực thì tốt, nếu vượt quá năng lực thì vui mừng, chỉ có điều là quan chức thích hợp với năng lực người khác thì tức giận nói rằng: “Tại sao tôi không thể làm công khanh?”  Loại quan như thế làm đến công khanh vẫn còn nhiều vậy. Lúc không có việc, trải qua ba năm vẫn không tổn thất gì; một khi xảy ra việc, phái họ đi xử lí, thì trống rỗng chẳng được gì, giống như bùn đất, trách hiệu quả lúc ra sức vung roi; còn khi không sử dụng đến thì làm gì có việc té bị thương để gây ra hoạ hoạn, tổn hại?”

https://blog.sina.com.cn/s/blog_686422420102x8rz.html

7-Thành hồ xã thử 城狐社鼠

Thành hồ 城狐: cáo trong thành.

          Trong Thuyết uyển 說苑 của Lưu Hướng 劉向có đoạn:

          Phàm loài cáo, là loài bị người đánh; loài chuột, là loài bị người hun khói. Nhưng thần chưa từng nghe qua cáo bị đánh, chuột bị hun khói. Vì sao như thế” Bời vì chúng có chỗ dựa.

          Thành ngữ “Thành hồ xã thử” 城狐社鼠chỉ hạng tiểu nhân dựa vào quyền thế làm điều ác, trong nhất thời khó mà tiêu diệt chúng được.

          Trong Tấn thư – Tạ Côn truyện 晉書 - 謝輥傳có chép:

          Triều Tấn có Tả tướng quân Vương Đôn 王敦, viên quan Trưởng sử của ông là Tạ Côn 謝輥, hai người thường bàn luận việc triều đình. Ngày nọ, Vương Đôn nói với Tạ Côn: “Con người Lưu Ngỗi 劉隗gian tà làm điều ác, gây hại cho quốc gia. Ta muốn diệt trừ tên ác nhân bên cạnh quân vương này. Ông thấy thế nào?”

          Tạ Côn suy nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu nói rằng: “Không được. Lưu Ngỗi quả là tên gian ác, nhưng cũng là loại “thành hồ xã thử”, muốn đào hang cáo để trừ thì sợ sụp thành, muốn dùng khói để hun chuột hoặc dùng nước để làm ngập hang chuột thì sợ sập miếu. Nay Lưu Ngỗi giống như cáo trong thành, như chuột trong miếu xã vậy, y là cận thần tả hữu của quân vương, thế lực rất lớn, lại có quân vương là chỗ dựa, e là không thể trừ khử.” Vương Đôn nghe qua trong lòng không vui những cũng đành thôi.

https://www.chinesewords.org/idiom/show-3376.html

Xã thử 社鼠: chuột miếu Xã (miếu Thổ địa).

Miếu Thổ địa được xây bằng gỗ và đất, chuột nấp trong đó rất khó diệt. Dùng lửa sợ cháy gỗ, dùng nước sợ đất nhão sẽ sụp.

Điển xuất từ Hàn Phi Tử - Ngoại trừ thuyết hữu thượng 韩非子 - 外储说右上.

桓公问管仲: “治国最奚患?对曰: 最患社鼠矣.公曰: 何患社鼠哉? 对曰: 君亦见夫为社者乎? 树木而涂之, 鼠穿其间, 掘穴托其中. 熏之, 则恐焚木; 灌之, 则恐涂阤. 此社鼠之所以不得也.

Hoàn Công vấn Quản Trọng: “Trị quốc tối hề hoạn?” Đối viết: “Tối hoạn Xã thử hĩ.” Công viết: “Hà hoạn Xã thử tai?” Đối viết: “Quân diệc kiến phù vi Xã giả hồ? Thụ mộc nhi đồ chi, thử xuyên kì gian, quật huyệt thác kì trung. Huân chi, tắc khủng phần mộc; quán chi tắc khủng đồ trĩ. Thử Xã thử chi sở dĩ bất đắc dã.”

Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: “Trị lí đất nước sợ điều gì nhất? Quản Trọng đáp rằng: “Sợ nhất là Xã thử” Hoàn Công lại hỏi: “Sao sợ nhất lại là Xã thử?” Quản Trọng đáp rằng: “ Ngài có thấy vật liệu làm miếu Xã không? Dùng gỗ rồi trét bùn đất lên, chuột xuyên bên trong, khoét hang sống trong đó. Xông khói thì sợ gỗ cháy, đổ nước thì sợ đất nhão sẽ sụp. Vì thế mà không diệt được Xã thử.”

(Theo: Hàn Phi Tử - Ngoại trừ thuyết hữu thượng 韩非子 - 外储说右上. Trương Giác 张觉 hiệu chú,Trường Sa - Nhạc Lộc thư xã, 2006.)

8-Thi vị tố xan 尸位素餐: Thời cổ lấy người sống thay người mất ngồi trên ngai để tiếp nhận sự tế bái, đó gọi là “thi” . Về sau dùng ảnh người mất để thay.

“Thi vị” 尸位: chiếm lấy chức vị mà không làm việc; “tố xan” không làm mà hưởng.

Tố xan 素餐: Điển xuất từ Thi –  Nguỵ phong - Phạt đàn - 魏風 - 伐檀:

Bỉ quân tử hề

Bất tố xan hề

彼君子兮

不素餐兮

(Người quân tử kia

Chẳng chịu ngồi không mà ăn)

          Triệu Kì 趙岐 khi chú thiên Tận tâm 盡心 trong Mạnh Tử 孟子nói rằng:

Vô công nhi thực, vị chi tố xan.

無功而食, 謂之素餐

(Không có công lao gì mà ăn, thì gọi là “tố xan”)

          Nhan Sư  Cổ 顏師古nói rằng:

Tố xan giả, đức bất xứng quan, không đương thực lộc.

素餐者, 德不稱官, 空當食祿.

(Kẻ không có công lao gì mà ăn, thì đức chẳng xứng với chức quan, loại ngồi không mà hưởng lộc.)

Tạm dịch

QUÂN ĐẠO

Chở thuyền hoặc lật thuyền đều do nước

Vua là thuyền, dân là nước xưa nay là như nhau

Mưu lợi cho dân mà không cậy công,

Tránh xa kẻ xu nịnh, gần với hiền thần đó là đạo lí.

Đề cao “lục ngôn” để mở mang dân trí

Dẹp trừ “tứ ác” để thu phục dân tâm.

Siêng năng chính sự, việc lớn nhỏ đều phải ra tay,

Dân gặp nạn phải nhanh chóng tìm đến an ủi.

Không dùng những kẻ chỉ biết đánh bóng ngôn từ, cùng những kẻ chỉ biết trau chuốt vẻ bề ngoài.

Tin vào bọn cáo ở thành hồ, bọn chuột nơi đền xã là không hề yên ổn.

Chớ có ngồi không mà hưởng lộc.

 

Previous Post Next Post