Dịch thuật: Chữ "huynh" 兄 và chữ "chúc" 祝

 

CHỮ “HUYNH” VÀ CHỮ “CHÚC”

          (huynh) là xưng vị đối với thân thuộc, thường dùng để gọi anh ruột của mình. Trong “Thuyết văn – Huynh bộ” 说文 - 兄部có chép:

Huynh, trưởng dã. Tùng nhi, tùng khẩu.

, 长也. 从儿, 从口

(Huynh là trưởng bối. Có chữ “nhi”, chữ “khẩu”)

          Hứa Thận 许慎cho rằng, (huynh) là chữ hội ý, biểu thị người cùng hàng mà tuổi tác lớn hơn mình. Ý nghĩa này về cơ bản tương đồng với hiện tại. Nhưng đó hoàn toàn không phải là nghĩa gốc, mà chỉ là nghĩa phái sinh của .

          Nhìn từ tự hình ở giáp cốt văn, chữ rất giống một người ngửa mặt lên trời đang há miệng. Hình tượng này chính là một người đang cầu đảo trong tế tự. Nhân đó, nhìn chung hiện tại cho rằng (huynh) phải là sơ văn của chữ (chúc), nghĩa gốc của là cầu đảo.

          Trung Quốc cổ đại, nhất là vào thời thượng cổ, sức sản xuất và trình độ nhận thức tương đối thấp, gặp phải vấn đề gì đều có tập tục hướng đến thần thỉnh cầu chỉ thị, nhân đó, đương thời đối với hoạt động tế tự quỷ thần trở thành đại sự hàng đầu trong cuộc sống, mọi người rất coi trọng. Chính vì địa vị của hoạt động tế tự trong cuộc sống con người đặc biệt quan trọng, cho nên vị chủ tế nhất định phải là nhân vật quan trọng. Trong một gia tộc, vị chủ tế nhìn chung là tộc trưởng. Tộc trưởng luôn là vị trưởng bối, cùng đồng bối với nhau cũng nhất định là huynh trưởng. Nhân đó, (huynh) luôn có địa vị đặc biệt trọng yếu trong một gia tộc Sự xác lập địa vị trọng yếu của (huynh) cùng với chế độ tông pháp cổ đại ở Trung Quốc có mối tương quan mật thiết, là do sự quyết định của trật tự xã hội tông pháp.

          Dựa theo quy tắc của chế độ tông pháp Trung Quốc, vị trí của tộc trưởng trong một gia tộc, thì huynh trưởng có được quyền thừa tự ưu tiên. Chế độ kế vị thời kì đầu ở Trung Quốc chính là “huynh chung đệ cập” 兄终弟及 (anh mất tới em), về sau lại phát triển thành chế độ trưởng tử kế thừa “phụ tử tử kế”父死子继 (cha mất con kế thừa). Trưởng tử đều là huynh trưởng, em trai cơ hồ không có khả năng tính kế thừa. Việc xác lập chế độ tông pháp lấy huynh trưởng làm quý, làm đầu tiên, nguyên là để tránh nhân vì người kế thừa quá nhiều mà dẫn tới sự đấu tranh đổ máu trong gia tộc. Nhân đó, huynh trưởng lí đương nhiên trở thành người kế thừa hợp pháp - tộc trưởng của gia tộc theo chế độ tông pháp, trở thành người cầu đảo chủ trì tế tự trong gia tộc. Điều mà chữ trong giáp cốt văn biểu thị chính là hình tượng vị huynh trưởng đang ngửa mặt lên trời cầu đảo.

          Chữ (chúc) trong giáp cốt văn là hậu khởi của chữ (huynh) thêm thiên bàng, lấy (thị) và (huynh) hội ý lại, càng biểu đạt rõ hình tượng huynh trưởng đang cầu đảo trước bàn thờ.

          Nhân đó, nghĩa gốc của (huynh) là (chúc), ý nghĩa là vị chủ tế cầu đảo. Còn (chúc) là chữ có sau, chữ (huynh) bèn trở thành xưng về thân thuộc đối với người cùng hàng với mình.

          Do bởi địa vị của (huynh) được tôn cao, về sau đột phá phạm vi xưng vị thân thuộc, trở thành từ tôn xưng đối với bạn bè nam giới, đồng thời tiến thêm một bước đột phá sự hạn chế tuổi tác, thường dùng để gọi bạn bè nhỏ tuổi hơn mình, thậm chí còn mở rộng đến chỗ không phân biệt giới tính, được dùng cho nữ giới. Lỗ Tấn 鲁迅 tiên sinh gọi Hứa Quảng Bình 许广平 (1) là “Quảng Bình huynh” 广平兄chính là một ví dụ điển hình.

          Trong quan niệm văn hoá truyền thống Trung Quốc, (huynh) đã phiếm chỉ hoá trở thành từ kính xưng mà nam nữ đều có thể sử dụng.

Chú của người dịch

1-Hứa Quảng Bình 许广平(1898 – 1968): vốn tên Hứa Sùng Tiền 许崇媊, tự Lại Viên 濑园, bút danh Cảnh Tống 景宋, Quy Chân 归真, nữ tác gia cận đại Trung Quốc, người Quảng Châu 广州Quảng Đông 广东. Hứa Quảng Bình là người vợ thứ hai của nhà văn Lỗ Tấn 鲁迅.

Huỳnh Chương Hưng

Quy nhơn 25/11/2025

Nguồn

HÁN TỰ LÍ ĐÍCH TRUNG QUỐC

汉字里的中国

Tác giả: Trần Bích Diệu 陈璧耀

Thượng Hải: Thượng Hải Viễn đông xuất bản xã, 2017

Previous Post Next Post