Dịch thuật: Chữ "hạ" 夏 và chữ "hạ" 厦

 

CHỮ “HẠ” VÀ CHỮ “HẠ”  

Chữ (hạ)

          Chữ (hạ) này là một trong bốn chữ biểu thị bốn mùa trong một năm là xuân, hạ, thu, đông. Từ cách tạo chữ mà nói, tự hình của hai chữ “xuân” và “thu” có liên quan đến thời tiết, biểu thị đặc trưng của thời tiết. Còn “hạ” và “đông” vốn không liên quan gì đến thời tiết, đều là giả tá hoặc nghĩa phái sinh của nghĩa gốc.

          Với chữ (hạ), về lai lịch có nhiều thuyết. Có người cho là “dã nhân” 野人 (người rừng), có người cho là tư thế một điệu múa, có người cho là một loài thú, có người cho là ếch, cũng có người cho là loài quái trùng trong nước, thậm chí có người cho là loài chim trên trời, đều chưa có sự thống nhất,

          Theo cách giải thích của Hứa Thận 许慎:

          Hạ, Trung Quốc chi nhân dã. Tùng (truy), tùng (hiệt), tùng (cữu). (cữu), lưỡng thủ, (truy) lưỡng túc dã.

          , 中国之人也. 从夊, 从页, 从臼. 臼两手, 夊两足也.

          (Hạ là người Trung Quốc. Có chữ (truy), chữ (hiệt), chữ (cữu). “Cữu” là hai tay, “truy” là hai chân.)

          Nhìn từ tự hình kim văn và triện văn, chữ (hạ) là hình người có đủ thân, đầu, tay, chân, hình tượng uy vũ cao lớn, về sau dùng tự xưng người Trung Quốc. Người Trung Quốc ở đây chỉ người ở khu vực trung nguyên. Lúc bấy giờ, người trung nguyên luôn cho mình là cao lớn.

          Người có hình tượng cao lớn xưng là “hạ” , nhân đó mà (hạ) có nghĩa là lớn. Trong “Nhĩ nhã – Thích hỗ thượng” 尔雅 - 释诂上  có ghi:

Hạ, đại dã.

, 大也

(Hạ là lớn)

          Trong “Phương ngôn” 方言quyển 1 ghi rằng:

Hạ, đại dã. Tự quan nhi tây, Tần Tấn chi gian, phàm vật chi tráng đại giả nhi ái vĩ chi, vị chi hạ.

, 大也, 自关而西, 秦晋之间, 凡物之壮大者而爱伟之, 谓之夏.

          (Hạ là lớn. từ quan trung đến phía tây, khoảng giữa Tần và Tấn, phàm vật nào to lớn mạnh khoẻ mà yêu thích sự to lớn đó thì gọi đó là “hạ”.)

          (hạ) từ chổ người cao lớn dẫn đến chỉ vật to lớn mạnh mẽ, thế là mùa mà thực vật sinh trưởng vượng thịnh nhất được gọi là (hạ). Đây là hiện tượng giả tá văn tự.

          Nhưng cũng có người cho rằng giáp cốt văn của chữ (hạ) nguyên là (“thiền” con ve). Tự hình của (hạ) ở giáp cốt “hình trạng giống như có đầu, cánh, chân, rất giống con ve. Nghi rằng bốc từ mượn “thiền” (ve) để chỉ “hạ” . Ve là loài côn trùng nổi tiếng nhất mùa hạ, nghe tiếng của nó biết là mùa hạ.” (Diệp Ngọc Sâm. “Ân khư thư khế tiền biên tập thích” 叶玉森. 殷墟书契前编集释.)

          (“Thiền” ve) là loài côn trung theo mùa, ve kêu là cảnh thường thấy ở mùa hạ, dùng nó để chỉ thay mùa hạ cũng là thuận lí thành chương.

          (“Thiền” ve) tục xưng là 知了 (tri liễu) , đọc nhanh lại nghe như chữ (“điêu” một loại ve), cho nên con ve còn được gọi là (điêu) . (điêu)  (điều) đồng âm. Theo “Thuyết văn” 说文:

Điều, tiểu chi dã.

, 小枝也

(Điều là cành nhỏ)

Chỉ mùa xuân cây cối nảy ra những cành nhỏ. Gió lúc lập xuân thổi qua những cành nhỏ này gọi là “điều phong” 条风, thế là (điều) có nghĩa là lưu loát mạch lạc, hình dung sinh cơ thông suốt, mà mùa có sinh cơ thông suốt nhất chính là mùa hạ, về thính giác nghe được tiếng “ngũ nguyệt minh điều” 五月鳴蜩 (tháng 5 ve kêu), về thị giác thấy được diện mạo cỏ cây tươi tốt, cho nên biệt danh của (“điêu” ve) có liên quan mật thiết với mùa hạ, nhân đó mà mượn dùng (thiền) để biểu thị mùa hạ là hợp tình hợp lí.

Chữ (hạ)

          Các kiến trúc cao lớn ở thời cổ cũng gọi là (hạ). Trong “Sở từ - Cửu chương – Ai Dĩnh” 楚辞 - 九章 - 哀郢có viết về nỗi đau buồn tiếc nuối của Khuất Nguyên 屈原đối với tập đoàn thống trị nước Sở làm hại nước:

Tằng bất tri hạ chi vi khâu hề.

曾不知夏之为丘兮

(Từng chưa biết những lâu đài cao lớn thành gò)

          Chữ (hạ) ở đây về sau viết thành (hạ). Ý nói không ngờ rằng lâu đài cao lớn ở Dĩnh đô biến thành gò đống.

          Chữ (hạ) từ chữ (hạ) phát triển mà ra, nhưng âm đọc của khác với . Trừ địa danh “Hạ Môn” 厦门chữ và chữ đồng âm ra, kì dư nếu biểu thị lầu cao, chữ đều có âm đọc là shà (âm Bắc Kinh hiện đại), như “đại hạ” 大厦, “quảng hạ” 广厦đều đọc là shà, không đọc xià.

Huỳnh Chương Hưng

Quy nhơn 08/11/2025 

Nguồn

HÁN TỰ LÍ ĐÍCH TRUNG QUỐC

汉字里的中国

Tác giả: Trần Bích Diệu 陈璧耀

Thượng Hải: Thượng Hải Viễn đông xuất bản xã, 2017

Previous Post Next Post