春咏
新鮮花草春時
誇其國色顯其天香
春信報正常温暖
發生來枝上萌芽
蝶習飛欲舞桃花
鶯學語求歌柳梗
柳還舊綠鶯猶靜
桃始新紅蝶未知
東風吹青柳如眉
殘雪白嶺頭不捨
天氣潤柔和幽雅
遊踏青車馬來潮
千金一笑春宵
XUÂN VỊNH
Tân
tiên hoa thảo xuân thì,
Khoa
kì quốc sắc, hiển kì thiên hương.
Xuân
tín báo chính thường ôn noãn,
Phát
sinh lai chi thượng manh nha.
Điệp
tập phi, dục vũ đào hoa,
Oanh
học ngữ, cầu ca liễu ngạnh.
Liễu
hoàn cựu lục, oanh do tĩnh,
Đào thỉ
tân hồng, điệp vị tri.
Đông
phong xuy, thanh liễu như mi,
Tàn
tuyết bạch, lĩnh đầu bất xả.
Thiên
khí nhuận, nhu hoà u nhã,
Du đạp
thanh, xa mã lai triều.
Thiên kim nhất tiếu xuân tiêu.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 05/10/2025
Chú của người dịch
Khoa 誇:
khoe. Hiển 顯: bộc lộ ra.
Xa mã 車馬: điển
xuất từ thành ngữ “xa thuỷ mã long” 車水馬龍, trong “Hậu Hán thư” 後漢書.
Niên hiệu Kiến Sơ 建初 nguyên
niên, Hán Chương Đế 汉章帝muốn phong tước cho bà con bên ngoại, Mã thái hậu 马太后 không đồng ý. Mùa hè năm sau, đại hạn, có người phân
tích tai hoạ đó cho rằng nguyên do là không phong tước cho ngoại thích. Người
quản sự việc nhân đó mới dâng tấu, nên theo cựu điển, phong tước cho ngoại
thích. Thái hậu ban chiếu không đồng ý, trong chiếu có câu:
Tiền quá
Trạc Long Môn Thượng, kiến ngoại gia vấn khởi cư giả, xa như lưu thuỷ, mã như
du long.
前过濯龙门上, 见外家问起居者, 车如流水, 马如游.
(Hôm trước đi qua Trạc Long Môn Thượng 濯龙门上,
nhìn thấy người bên ngoại đến thăm nhà mẹ ta, dẫn theo rất nhiều nô bộc, có thể
nói, xe nhiều như nước chảy, ngựa nhiều như rồng bơi )
(“Hậu Hán thư – Bản kỉ - Hoàng hậu kỉ thượng” 后汉书 – 本纪 – 皇后纪上)
http://www.gushice.com/bookview_3880.html
Thành
ngữ “xa thuỷ mã long” 车水马龙 hoặc
“mã long xa thuỷ” 马龙车水, xe chạy như nước chảy liên tục không dứt, ngựa nối
đuôi nhau như rồng bơi, hình dung cảnh tượng phồn hoa náo nhiệt.
Nguyễn Du trong “Truyện
Kiều” cũng đã viết:
Dập dìu, tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nen
(câu 47 – 48)
Lai triều 來潮: như nước triều tuôn chảy
đến.
Câu 13: Mượn từ câu đầu bài Xuân tiêu 春宵của Tô Thức 蘇軾đời Tống:
Xuân
tiêu nhất khắc trị thiên câm
Hoa hữu
thanh hương nguyệt hữu âm
Ca quản
lâu đài thanh tế tế
Thu
thiên viện lạc dạ trầm trầm
春宵一刻值千金
花有清香月有陰
歌管樓台聲細細
鞦韆院落夜沉沉
(Đêm xuân một khắc cũng đáng
giá ngàn vàng
Hoa toả mùi thơm, trăng toả
bóng
Tiếng ca tiếng sáo chốn lâu đài
nghe êm dịu
Cây đu trong sân đổ bóng trong đêm yên tĩnh)
Bài này tạm dịch từ bài “Vịnh
mùa xuân” của Nguyễn Công Trứ.
VỊNH
MÙA XUÂN
Xuân
sang hoa cỏ đua tươi,
Khoe
màu quốc sắc, trẻ mùi thiên hương. (1)
Đầm ấm
thủa tin xuân phút bắn,
Khi
phát sinh rải rác trên cành.
Thử tập
bay, bướm mới uốn mình,
Muốn
học nói, oanh còn lựa tiếng.
Liễu
hoàn cựu lục, oanh do tĩnh, (2)
Đào thỉ
tân hồng, điệp vị tri. (3)
Mái
đông phong mày liễu xanh rì
Đám
tàn tuyết, đầu non trắng xoá.
Buổi
hoà hú khí trời êm ả, (4)
Hội đạp
thanh xa mã dập dìu. (5)
Ngàn vàng một khắc xuân tiêu. (6)
Chú thích
1-Quốc sắc thiên hương: sắc
đẹp nhất của nước, hương thơm nhất của trời.
Trẻ: tiếng địa phương, khoe.
2-Câu 7: Liễu
đã xanh trở lại như cũ mà chưa nghe tiếng oanh hót.
3-Câu 8: Hoa
đào đã bắt đầu thắm mà bướm chưa biết đến.
4-Hoà hú: ấm
áp (khí hậu)
5-Đạp thanh: đạp
lên cỏ xanh, dạo chơi trên bãi cỏ xanh. Hội đạp thanh: theo tục cổ Trung Quốc,
đến tiết Thanh minh, người ta rủ nhau đi dạo chơi trên các bãi cỏ xanh.
Thanh
minh trong tiết tháng ba
Lễ là
tảo mộ hội là đạp thanh
(Kiều)
6-Xuân tiêu: đêm
xuân. Câu này dịch câu thơ chữ Hán: Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim (Một
phút đêm xuân giá ngàn vàng).
(“Nguyễn
Công Trứ - Tác giả, tác phẩm, giai thoại” Nguyễn Viết Ngoạn, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia TP. HCH, 2002)