THỎ TRƯỜNG SINH TRÊN MẶT TRĂNG
Trong văn hoá truyền thống có liên
quan đến thỏ (thố 兔), ấn tượng sâu sắc nhất của mọi
người có lẽ là truyền thuyết về thỏ trên mặt trăng. Nguồn gốc của thỏ trên mặt
trăng phải bắt đầu từ “thố nhập nguyệt cung” 兔入月宮.
Theo truyền thuyết, Hậu Nghệ 后羿sau khi bắn rụng 9 mặt trời,
xin được tiên dược trường sinh bất lão ở chỗ Tây Vương Mẫu 西王母. Uống tiên dược này, con người
có thể thăng thiên biến thành tiên. Một ngày nọ, Hậu Nghệ ra ngoài săn bắn, vợ
là Thường Nga 嫦娥nảy ra lòng hiếu kì, lén uống tiên
dược trường sinh bất bất lão, thân thể trở nên nhẹ, từ từ bay lên trời. Trước
khi bay, một con thỏ trắng mà Thường Nga nuôi chạy vào lòng, Thường Nga ôm thỏ
trắng, bay một mạch đến cung Quảng Hàn 广寒 trên mặt trăng. Cung Quảng Hàn ngọc khiết băng thanh,
thỏ trắng bay vào cung được gọi là “ngọc thố” 玉兔. Lông của thỏ trắng như tuyết, hai tai dài dài, đôi mắt
hồng hồng, giống như cung Quảng Hàn, tạo cho người xem một cái đẹp dịu dàng
Truyền thuyết này biểu hiện sự căm ghét
của con người đối với mặt trời oi bức, nóng nảy, hung ác, đối lập với sự tươi mát,
dịu dàng, lương thiện của mặt trăng, trở thành điểm truy cầu mà con người hướng
đến. Từ đó có thể thấy, trạng huống sinh tồn sinh sản của con người thời viễn cổ;
con người khi vừa mới sinh ra thọ mệnh rất ngắn, để duy trì sự sinh sôi nảy nở
, không thể không coi trọng sự sinh sản của tự thân, nhân đó mà sùng bái mặt trăng
có sinh mệnh lực mạnh mẽ. Bản thân thỏ sinh đẻ nhiều, lại có mối quan hệ với mặt
trăng có thể chết đi sống lại, được xem là tượng trưng cho mặt trăng, cũng nhận
được sự sùng bái của mọi người. dẫn đến sự cầu mong của con người đối với tự thân
sinh thực lực và trường sinh. Như vậy, thỏ có thể được chọn đứng vào hàng 12
con giáp là không có gì ngạc nhiên.
Thỏ vào thời cổ cũng gọi là “thổ tử” 土子, đây có lẽ là do có mối quan hệ
rất lớn về tập tính sinh hoạt của nó. Thỏ trước khi sinh nó đào hang, sinh con
trong hang, sau khi thỏ con sinh ra, nó lấy đất phủ lên thân thỏ con, đồng thời
đóng cửa hang lại. Nhìn thấy tình hình đó, người ta cho rằng thỏ và đất có mối
quan hệ mật thiết đặc biệt, nên đã gọi thỏ là “thổ tử” 土子, ý nghĩa là “thổ địa đích tử nữ” 土地的子女 (con cái của đất). Còn mặt trăng,
thời cổ được xem là “địa tinh” 地精, trong
“Chu dịch – Thuyết quái” 周易 - 说卦 cho rằng
trăng khuyết tương tự như sừng trâu, tượng trưng địa mẫu. Mối quan hệ giữa thỏ
với mặt trăng có lẽ được kiến lập trên cơ sở này. Trong mắt người xưa, đất đai
là mẹ của muôn vật, nhận được sự sùng bái, thỏ là con của đất, đương nhiên được
đứng vào hàng 12 con giáp.
Thỏ ở thời cổ còn gọi là “thổ tử” 吐子. Vương Sung 王充 trong “Luận hành – Kì quái
thiên” 论衡 - 奇怪篇nói rằng: Thỏ cái lúc sinh, thỏ
con “từ miệng mà ra”. Trên thực tế, thỏ và những động vật có vú khác như nhau, đều
là thai sinh. Thỏ cái có lúc cắn thỏ con do mình sinh ra, đó là hành vi đặc biệt
sau khi thỏ sinh, người ta nhìn thấy, cho đó là thỏ con được sinh ra từ miệng thỏ
mẹ, nên gọi thỏ là “thổ tử” 吐子 (“thổ” 吐 là nhả ra, nhổ ra – ND).
Không chỉ như thế, sự biến hoá tròn
khuyết của mặt trăng vào thời cổ cũng từng được cho là có thai sinh con. Trong
thần thoại “Thái dương, nguyệt lượng hoà tinh tinh” 太阳,月亮和星星của dân tộc Tráng 壮ở Quảng Tây 广西có nói, mặt trời là cha, mặt trăng
là mẹ, các vì sao là con cái của họ. Mặt trời mỗi ngày ăn một vì sao, đồng thời
đem hạt giống sinh mệnh truyền cho mặt trăng; mặt trăng mỗi ngày đều hấp thu
dinh dưỡng của sao, mỗi tháng đều sinh ra đứa con, trăng non ngày ngày dần biến
tròn, sao càng ngày càng thưa, đó là mặt trăng sau khi hấp thu dinh dưỡng của
sao, thai nhi trong bụng dần lớn lên, đến lúc đầy tháng thai nhi thành thục bèn
xuất ra, sao được xem là con của mặt trăng, sao càng ngày càng nhiều, trăng càng
ngày biến nhỏ, đến mùng một thì tiêu mất, lại bắt đầu một vòng tuần hoàn mới.
“Ngọc thố đảo dược” 玉兔搗葯 (thỏ ngọc giã thuốc) là câu
chuyện truyền thuyết mà chúng ta đều quen thuộc, nhưng, thuốc mà ngọc thổ “đảo”
搗là gì? Trong Hán nhạc phủ thi có
lời giải đáp:
Bạch thố trường quỵ đảo dược hà
mô hoàn.
白兔长跪搗虾蟆丸
(Thỏ trắng quỳ giã thuốc có tên
là “hà mô hoàn”)
“Hà mô” 虾蟆chính là con cóc hoặc con ếch, là con vật đến cung trăng cùng lúc với thỏ. Ếch là loài động vật ngủ đông, mùa đông nó nằm cứng đơ trong đất, mùa xuân tỉnh dậy, trong mắt người xưa, đó chính là chết rồi sống lại. Ếch lại tượng trưng cho nữ tính, trong mắt người nguyên thuỷ, ếch bụng tròn đẻ nhiều tượng trưng cho tử cung của nữ, hai chân ếch cong lại giống như tư thể của người nữ lúc sinh, cho nên “nữ âm” 女阴cũng được gọi là “oa khẩu” 蛙口. Nữ Oa 女娲cũng được gọi là Nữ Oa 女蛙, Nữ Oa được thờ cúng ở một số nơi tại Việt Nam chính là tư thế chân của ếch. Trong tư duy hỗn dung của tiên dân và sự hỗ tương thẩm thấu, hình trạng tương tự thì có công năng tương tự, nhân đó mà thỏ và ếch trên cơ sở “sinh dục” có mối quan hệ, cùng tiến vào mặt trăng, cùng chế linh dược trường sinh bất lão, thành tượng trưng cho mặt trăng. Nhìn từ đó, thỏ có thể xếp đứng vào hàng 12 con giáp, không những có liên quan với mặt trăng, mà còn trợ giúp cho ma lực của cóc.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 05/10/2025
Nguồn
ĐẠI TRUNG QUỐC – SINH TIẾU VĂN
HOÁ
大中国 - 生肖文化
“Đại Trung Quốc văn hoá” Tùng thư
biên uỷ hội biên soạn
Bắc Kinh: Ngoại văn xuất bản xã,
2011
