咏前赤壁
秋來風月滿船
庫倉無盡何年用完
宋蘇子遊閑赤壁
一隻船及一囊詩
飀飀風水面如絲
偏斜月山頭出露
灘白浪橫流船已渡
槕蘭槳而沿到山崗
歌曰桂掉兮蘭槳
擊空明兮泝流光
渺渺兮予懷
望美人兮天一方
倚歌聲裊裊入宮商
簫笛弄浮沉於水底
忽憶當年橫槊賦詩人感世
想塵間多事轉蜉蝣
已知天地無私
兩倉風月千秋永存
天存山水亦存
VỊNH TIỀN XÍCH BÍCH
Thu lai phong nguyệt mãn thuyền
Khố thương vô tận hà niên dụng
hoàn
Tống Tô Tử du nhàn Xích Bích
Nhất chích thuyền cập nhất
nang thi
Lưu lưu phong, thuỷ diện như
ti
Thiên tà nguyệt, sơn đầu xuất
lộ
Than bách lãng, hoành lưu
thuyền dĩ độ
Trạo lan tương nhi diên đáo
sơn cương
Ca viết: Quế trạo hề lan tương
Kích không minh hề tố lưu quang
Diểu diểu hề dư hoài
Vọng mĩ nhân hề thiên nhất phương
Ỷ ca thanh niểu niểu nhập
cung thương
Tiêu địch lộng phù trầm ư thuỷ
để
Hốt ức đương niên, hoành sóc phú thi nhân cảm thế
Tưởng trần gian đa sự chuyển
phù du
Dĩ tri thiên địa vô tư
Lưỡng thương phong nguyệt
thiên thu vĩnh tồn
Thiên tồn sơn thuỷ diệc tồn
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 12/10/2025
Chú của người dịch
1-Tống Tô Tử 宋蘇子:
tức Tô Thức 蘇軾 (1037 – 1101), văn học gia,
thư hoạ gia thời Bắc Tống, tự Tử Chiêm 子瞻, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người Mi Sơn 眉山 Mi Châu 眉州 (nay thuộc Tứ Xuyên 四川). Ông cùng với phụ thân Tô Tuân 蘇洵, em trai Tô Triệt 蘇轍 được gọi là “Tam Tô” 三蘇, cả ba người đều được xếp vào “Đường Tống bát
đại gia” 唐宋八大家. Hai bài “Tiền Xích Bích phú” 前赤壁賦 và “Hậu Xích Bích phú” 後赤壁賦 của ông rất nổi tiếng.
2-Lưu lưu 飀飀:
(gió) hiu hiu.
3-Thiên tà 偏斜:
chênh chếch, nghiêng nghiêng.
4-Ỷ ca 倚歌:
hoạ theo tiếng đàn tiếng sáo.Điển xuất từ trong “Tiền Xích Bích phú” của
Tô Thức:
Khách hữu xuy động tiêu giả, ỷ
ca nhi hoạ chi.
客有吹洞簫者, 倚歌而和之
(Trống đám khách có người thổi
ống tiêu, theo bài ca của ta mà hoạ lại)
5-Niểu niểu 裊裊:
(âm thanh) dịu dàng réo rắt
6-Hoành sóc phú thi 橫槊賦詩:
mượn từ trong “Tiền Xích Bích phú”.
Si tửu lâm giang, hoành sóc
phú thi.
釃酒臨江, 橫槊賦詩
(Rót chén rượu đứng trên mặt sông, cầm ngang ngọn giáo ngâm câu thơ)
Bài này tạm dịch từ bài “Vịnh
Tiền Xích Bích” của Nguyễn Công Trứ.
VỊNH TIỀN XÍCH BÍCH
Gió
trăng chứa một thuyền đầy,
Củ
kho vô tận biết ngày nào vơi. (1)
Ông
Tô tử qua chơi Xích Bích, (2)
Một
con thuyền với một túi thơ.
Gió
hiu hiu mặt nước như tờ,
Trăng
chếch chếch đầu non mới ló.
Thuyền
một lá xông ngang ghềnh bạch lộ, (3)
Buông
chèo hoa len lỏi chốn sơn cương. (4)
Ca rằng:
Quế trạo hề lan tương, (5)
Kích
không minh hề tố lưu quang, (6)
Diểu diểu
hề dư hoài, (7)
Vọng mỹ
nhân hề thiên nhất phương. (8)
Người
ỷ ca réo rắt khúc cung thương, (9)
Tiếng
tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước.
Sực
nhớ kẻ quay ngọn giáo vịnh câu thơ thuở trước, (10)
Nghĩ
sự đời thêm cảm nỗi phù du. (11)
Đành
hay trời đất giành cho,
Hai
kho phong nguyệt nghìn thu hãy còn!
Còn trời còn nước còn non.
Chú thích
1-Vô tận:
không bao giờ hết. Ý câu thơ của Tô Đông Pha trong bài “Tiền Xích Bích”: Duy
giang thượng chi thanh phong, dữ sơn giang chi minh nguyệt, thử tạo vật chi vô
tận trạng, nhi ngô dữ tử xhi sở cộng thích.
Nghĩa là: Chỉ có gió mát ở trên sông, trăng trong ở sườn núi là kho vô tận
của tạo vật, mà ta với người cùng thích đó.
2-Xích Bích:sông
Xích Bích ở huyện Gia Ngư, Hồ Nam, Trung Quốc. NHà thơ Tô Đông Pha từng thả
thuyền chơi ở đây và làm hai bài phú nổi tiếng Tiền Xích Bích, Hậu Xích Bích.
3-Ghềnh bạch lộ: bạch
lộ là sương trắng. Ý nói: nước ở ghềnh chảy tung toé lên trông như sương trắng.
4-Sơn cương: dãy
núi.
5-Chèo
bằng gỗ quế, sào băng gỗ lan.
6-Mái
chèo đưa lên mặt nước loang loáng ánh trăng
7-Lòng
ta thổn thức,
8-Mong
người đẹp ở chân trời.Mỹ nhân không nhất thiết chỉ người phụ nữ đẹp mà chỉ cả
người bạn tốt. Cả bốn câu đều là nguyên văn trong bài phú Tiền Xích Bích.
9-Ỷ ca: người
hát theo điệu đàn.
10-Chỉ Tào Tháo từng mang quân đi đánh Đông Ngô, khi
qua sông Xích Bích, ông cầm ngang ngọn giáo đứng trên truyền ngâm một bài thơ tức
cảnh, tự phụ mình là một bậc anh hùng, coi thường thiên hạ.
11-Phù du: con
vờ, sống trên mặt nước, sớm nở chiều chết.
Phù
du triêu sinh mộ tử (Trang tử). Nghĩa là: Phù du sớm nở tối chết.
(“Nguyễn Công Trứ - Tác giả,
tác phẩm, giai thoại” Nguyễn Viết Ngoạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.
HCH, 2002)