Sáng tác: Nam nhi chi chí - Thông minh nhất nam tử (HCH)

 

男兒之志

聰明一男子

要爲天下奇

下生來必定有所希

難道消耗三萬六

莫管化兒妒忌

桑弧蓬矢决還清

盡力乎筆陣而努力劍弓

使顯露鬚眉男子

於宇宙擔當分事

爲江山而要立身名

去空回必願成 

NAM NHI CHI CHÍ

Thông minh nhất nam tử

Yếu vi thiên hạ kì

Hạ sinh lai tất định hữu sở hi

Nan đạo, tiêu hao tam vạn lục

Mạc quản hoá nhi đố kị

Tang hồ bồng thỉ quyết hoàn thanh

Tận lực hồ bút trận, nhi nỗ lực kiếm cung

Sử hiển lộ tu mi nam tử

Ư vũ trụ, đảm đương phận sự

Vị giang sơn nhi yếu lập thân danh

Khứ không, hồi tất nguyện thành

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 01/10/2025 

Chú của người dịch

Yếu vi thiên hạ kì: cần phải là một hùng tài trong thiên hạ.

          Vương Đình Khuê 王庭珪đời Tống trong bài “Tống Hồ Bang Hành chi Tân Châu biếm sở” 送胡邦衡之新州贬所 (bài 2) có viết:

Si nhi bất liễu công gia sự

Nam tử yếu vi thiên hạ kì

痴儿不了公家事

男子要为天下奇

(Kẻ ngốc (ám chỉ Tần Cối) không làm được những việc lớn

Nam tử hán cần phải là một hùng tài trong thiên hạ)

https://www.gushiwen.cn/mingju/juv_b9af4f64e06a.aspx

Sở hi 所希: những điều hi vọng, mong mỏi.

Nan đạo 難道: lẽ nào, chẳng lẽ.

Mạc quản 莫管: mặc kệ, không quan tâm.

Hoá nhi 化兒Tức “tạo hoá tiểu nhi” 造化小儿 chỉ ông trời. Người xưa xem ông trời như con nít, tạo ra và biến hoá nhiều trò nghịch ngợm để đùa cợt con người. Đây là cách nói xem thường, hàm ý bỡn cợt.

          Trong Tân Đường thư – Đỗ Thẩm Ngôn truyện 新唐书 - 杜审言传 có chép: Lúc Đỗ Thẩm Ngôn 杜审言 bệnh nặng, Tống Chi Vấn 宋之问 cùng Vũ Bình Nhất 武平一  đến thăm. Đỗ Thẩm Ngôn nói với hai người rằng:

Thậm vi tạo hoá tiểu nhi tương khổ, thượng hà ngôn?

甚为造化小儿相苦尚何言

(Ta đã chịu những nỗi thống khổ do tạo hoá tiểu nhi gây ra, còn gì để nói nữa đâu?)

http://www.millionbook.com/gd/d/dushenyan/000/001.htm

“Hóa nhi” 化儿cũng được nói là “hoá công” 化工, tức xem ông trời như người thợ tạo ra muôn vật. Trong Phục điểu phú 鵩鸟赋 của Giả Nghị 贾谊  đời Hán có câu:

Thả phù thiên địa vi lư hề, tạo hoá vi công; âm dương chi thán hề, vạn vật vi đồng, hợp tán tiêu tức hề, An hữu thường tắc? Thiên biến vạn hoá, vị thuỷ hữu cực.

且夫天地為鑪兮造化為工陰陽為炭兮萬物為銅合散消息兮安有常則千變萬化兮未始有極!

(Trời đất là lò, tạo hoá là thợ; âm dương là than, vạn vật là đồng. Sự vật tụ tán sinh diệt, làm gì có quy tắc nhất định? Thiên biến vạn hoá, trước giờ chưa từng chấm dứt)

(Giả Nghị 贾谊Phục điểu phú 鵩鸟赋)

Tang hồ bồng thỉ 弧蓬矢: cây cung bằng gỗ dâu, mũi tên bằng cỏ bồng.

          Trong Lễ kí – Xạ nghĩa 礼记 - 射义 có đoạn:

          Cố nam tử sinh, tang hồ bổng thỉ lục dĩ xạ thiên địa tứ phương. Thiên địa tứ phương giả, nam tử chi sở hữu sự dã.

          故男子生桑弧蓬矢六以射天地四方天地四方者,男子之所有事也.

          (Cho nên bé trai được sinh ra, liền sai người thay bé, dùng cung làm bằng gỗ cây dâu và 6 mũi tên làm bằng cỏ bồng để bắn một mũi lên trời, một mũi xuống đất, bốn mũi bốn hướng đông tây nam bắc, biểu thị kính trời kính đất, uy phục tứ phương. Có chí lớn hùng tâm thiên địa tứ phương là phận sự của nam nhi.)

https://baike.baidu.com/item/%E7%A4%BC%E8%AE%B0%C2%B7%E5%B0%84%E4%B9%89/6542207

“Tang bồng chí” 桑蓬志, “Tang bồng chi chí” 桑蓬之志 hoặc “Tang hồ bồng thỉ” 桑弧蓬矢 dùng để ví chí hướng to lớn của nam nhi.

            Trong bài Thứ vận Trạch Chi Tiến Hiền đạo trung mạn thành 次韵择之进贤道中漫成 của Chu Hi 朱熹 đời Tống có câu:

Khởi tri nam tử tang bồng chí

Vạn lí đông tây bất tác nan

岂知男男子桑蓬志

万里东西不作难

(Há biết chí tang bồng của nam nhi

Đông tây muôn dặm không gì là khó cả)

https://baike.baidu.com/item/%E6%A1%91%E8%93%AC%E5%BF%97/10235882

Bài này tạm dịch từ bài “Chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ.

CHÍ NAM NHI

聰明一男子

Thông minh nhất nam tử

要爲天下奇

Yếu vi thiên hạ kỳ

Trót sinh ra thì phải có chi chi

Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu

Đố kỵ sá chi con tạo

Nợ tang bồng quyết trả cho xong

Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung

Làm cho rõ tu mi nam tử

Trong vũ trụ đã đành phận sự

Phải có danh mà đối với núi sông

Đi không, chẳng lẽ về không 

Chú thích

1-Hai câu 1,2: Một người con trai thông minh phải làm nên một người khác thường trong thiên hạ.

2-Bút trận 筆陣: trận bút, chốn trường văn.

3-Tu mi nam tử 鬚眉男子: người con trai mày, râu (Tu: râu; mi: lông mày). Chữ tu mi dùng để chỉ người con trai.

(“Việt văn độc bản”. Lớp Đệ Nhị: Đàm Xuân Thiều – Trần Trọng San. Bộ Văn hoá Giáo dục, 1965)

Previous Post Next Post