Dịch thuật: Rắn trong văn tự Trung Quốc

 

RẮN TRONG VĂN TỰ TRUNG QUỐC

          Trong văn tự Trung Quốc, loại chữ tượng hình chiếm số lượng lớn, đa phần là những sáng tạo do người thời cổ nhìn từ hình thể của các vật. trong đó hàm chưa rất nhiều những tin tức liên quan tới rắn.

(tha), (trùng), (tị) là (xà).

          Chữ (xà) vốn là , bộ (trùng) bên cạnh là do sau này người ta thêm vào. Từng là tục tự. Hứa Thận 许慎 thời Đông Hán trong “Thuyết văn giải tự” 说文解字 giải thích, là tượng hình. “giống như cái đuôi cong rủ xuống”. Lại nói, “Thời thượng cổ cư trú trong đám cỏ, , vì sợ rắn, nên gặp nhau thì hỏi: ‘Vô xà hồ?’ 无它乎(không có rắn chứ?). Thời nguyên thuỷ, sống trong hang ngoài đồng trống, tránh bị rắn làm hại là việc lớn trong cuộc sống thường ngày. Mọi người khi gặp mặt, cùng hỏi nhau ‘vô xà hồ?’ 无它乎 (tương đương với “không có rắn chứ?”), và lấy đó để làm câu chào hỏi.

          Rắn trong dân gian còn gọi là “trường trùng” 长虫, còn chữ (trùng) nghĩa cổ của nó chính là chỉ rắn. Chữ (trùng) được khắc trong giáp cốt văn, là loại độc xà với phần đầu có hình tam giác. Trong “Thuyết văn” 说文có chép chữ (trùng) cũng là hình dạng rắn nằm.

          Trong “Thuyết văn” đối với 12 chữ dùng trong thập nhị địa chi cũng đều có giải thuyết, nhưng liên quan đến thuộc tướng, thì điển hính nhất là chữ (tị):

Tứ nguyệt dương khí dĩ xuất, âm khí dĩ tàng, vạn vật hiện, thành văn chương, cố tị vi xà tượng hình.

四月阳气已出, 阴气已藏, 万物见, 成文彰, 故巳为它象形.

(Tháng Tư khí dương xuất hiện, khí âm ẩn tàng, muôn vật bắt đầu sinh trưởng, thể hiện cảnh tượng phồn thịnh, cho nên chữ “tị” được cho là hình thái của “xà”.)

Tức là nói, là chữ tượng hình của rắn. Vương Ứng Lân 王应麟 đời Tống trong “Khốn học kỉ văn” 困学纪闻khi bàn đến vấn đề khời nguyên của 12 con giáp cũng nói rằng:

“Thuyết văn giải tự” diệc vị tị vi xà, tượng hình.

说文解字亦谓巳为蛇, 象形

(“Thuyết văn giải tự” cũng nói là “tị” là xà, chữ tượng hình.)

(ba), (thục) là (xà)

          Chữ (ba) là trong chữ  (tị) thêm một nét, nhưng nét đó có ý nghĩa gì? Theo sự khảo cứu của các chuyên gia thì đó là “đại tượng” 大象 (voi lớn). Tục ngữ có câu:

Nhân tâm bất túc xà thôn tượng.

人心不足蛇吞象

(Lòng người tham không biết chán, giống như rắn nuốt voi)

Quả thực có loại “thôn tượng chi xà” 吞象之蛇 (rắn nuốt voi). Trong “Thuyết văn giải tự” giải thích:

Trùng dã, hoặc viết thực tượng xà, tượng hình.

虫也, 或曰食象蛇, 象形

(Trùng,  cũng nói là rắn nuốt voi, chữ tượng hình)

          Trong “Thiên vấn” 天问của Khuất Nguyên 屈原cũng có câu:

Nhất xà thôn tượng, quyết đại hà như?

一蛇吞象, 厥大何如?

(Rắn nuốt voi, nó lớn như thế nào?)

          Các nhà chú giải của các đời đều dẫn trong “Sơn hải kinh – Hải nội nam kinh” 山海經 - 海内南經 đáp rằng:

Ba xà thực tượng, tam tuế nhi xuất kì cốt.

巴蛇食象, 三岁而出其骨.

(Ba xà nuốt voi, ba năm mới nhả xương voi ra)

          Truyền thuyết còn kể rằng, Hậu Nghệ 后羿bắn mặt trời, đã giết con ba xà bên hồ Động Đình 洞庭, xương của ba xà chất cao như gò, nên có địa danh “Ba Lăng” 巴陵. Lại có “Tượng cổt sơn” 象骨山, tương truyền ba xà nuốt rắn, xương voi chất thành núi.

          Trong “Li tao đồ” 离骚图, bản san khắc khoảng thời Thuận Trị 顺治đời Thanh, càng nói rõ tình hình cụ thể ba xà nuốt voi.

          Nam phương hữu linh xà, thôn tượng tam niên, nhiên hậu xuất kì cốt thị dã. Xà thuộc tị, ba ích dĩ thiệt hoạ giả, tượng hình dã.

          南方有灵蛇, 吞象三年, 然后出其骨是也. 蛇属巳, 巴益以舌画者, 象形也

          (Phương nam có linh xà, nuốt voi, ba năm sau đó mới nhả xương voi ra là đó. (xà) thuộc (tị), (ba) là vẽ thêm chiếc lưỡi vào, thuộc chữ tượng hình.)

          Trong “Nhĩ nhã dực” 尔雅翼của người đời Tống soạn cũng có nói:

          Ba giả, thực tượng chi xà, kì tự tượng uyển diên chi hình.

          巴者, 食象之蛇, 其字象蜿蜒之形.

          (Ba là loài rắn nuốt voi, chữ viết giống hình dạng đang trườn của rắn)

                                                                  (còn tiếp)

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 23/10/2025

Nguồn

ĐẠI TRUNG QUỐC – SINH TIẾU VĂN HOÁ

大中国 - 生肖文化

“Đại Trung Quốc văn hoá” Tùng thư biên uỷ hội biên soạn

Bắc Kinh: Ngoại văn xuất bản xã, 2011

Previous Post Next Post