Dịch thuật: Chính thê của hoàng đế vì sao xưng là "hoàng hậu" ...

 

CHÍNH THÊ CỦA HOÀNG ĐẾ VÌ SAO XƯNG LÀ “HOÀNG HẬU” XƯNG HIỆU ĐÓ TỪ ĐÂU MÀ RA

          Trong cung đình phong kiến, hoàng đế có “tam cung lục viện thất thập nhị tần phi”, trong số những thê thiếp đó, chỉ có chính thê của hoàng đế xưng là ‘hậu” , chính là “hoàng hậu” 皇后. Nhưng vì sao chính thể của hoàng đế xưng là “hậu” ?

          Trước triều Chu, thê tử của hoàng đế đều xưng là “phi” , bắt đầu từ triều Chu mới xưng là “hậu” , như trong “Lễ kí” 礼记có chép:

Thiên tử chi phi viết hậu

天子之妃后

(Phi của thiên tử gọi là “hậu”)

          Đến khi Tần vương Doanh Chính 秦王嬴政thống nhất sáu nước, đổi xưng hiệu là “hoàng đế” 皇帝, định chính thê của hoàng đế là “hoàng hậu” 皇后. Nhưng, chế độ hậu phi thời kì này vẫn chưa hoàn bị, mãi đến triều Hán mới bắt đầu chấp hành chế độ hậu phi và phân định đẳng cấp tương đối hoàn bị. Trong “Hán thư – Cảnh Đế kỉ” 汉书 - 景帝纪có chép:

Trẫm thân canh, hậu thân tang, dĩ phụng tông miếu tư thình tế phục, vi thiên hạ tiên.

朕亲耕, 后亲桑, 以奉宗庙粢盛祭服, 为天下先.

(Trẫm đích thân cày, hậu đích thân chăn tằm kéo sợi để có được vật phẩm và tế phục thờ phụng tông miếu, làm trước thiên hạ.)

Cũng trong “Hán thư – Cao Đế kỉ” 汉书 - 高帝纪có câu:

Tôn vương hậu viết hoàng hậu, thái tử viết hoàng thái tử.

尊王后曰皇后, 太子曰皇太子.

(Tôn vương hậu làm hoàng hậu, thái tử làm hoàng thái tử.)

“Hậu” nguyên chỉ vị quân chủ. Thời thượng cổ, “hậu” là xưng hiệu của đế vương. Như con của Đại Vũ xưng là “Hạ Hậu thị” 夏后氏, còn như trong truyền thuyết có Hậu Nghệ 后羿bắn mặt trời.

Trong “Thi kinh” 诗經 có chép:

Thương chi tiên hậu, thụ mệnh bất đãi, tại Vũ Đinh tôn tỉ (tử).

商之先后, 受命不殆, 在武丁孙子.

(Tiên vương của nhà Thương, nhậm mệnh từ trời rất vững vàng không nguy hiểm, nên còn truyền đến con cháu là Vũ Đinh.)

Lời tiên của Trịnh Huyền 郑玄rằng:

Hậu, quân dã.

, 君也

(Hậu là vị quân chủ)

          Trong “Tả truyện” 左传 cũng có câu:

Kì nam lăng, Hạ hậu cao chi mộ dã.

其南陵, 夏后皋之墓也.

(Lăng mộ hướng về nam, đó là lăng mộ của quốc quân “Cao” triều Hạ)

          Và trong “Thư kinh” 书經có nói:

Thụ hậu vương quân công, thừa dĩ Đại phu sư trưởng.

树后王君公, 承以大夫师长

(Kiến lập chế độ thiên tử, chư hầu, quân vương và công tước, đồng thời do Đại phu phụ tá giáo đạo, làm căn bản trị lí đất nước)

          Có thể thấy, các “hậu” đó đều chỉ vị quân chủ.

          “Hậu” thời cổ đã là từ xưng hô đế vương, sao về sau lại dùng để xưng hô nữ giới?

          Nhìn từ hình dạng của chữ, “hậu” là chữ hội ý. Chữ “hậu” trong giáp cốt văn gồm chữ (khẩu) ở phía dưới bên trái, phía trên bên phải là bàn tay khép lại; đến kim văn, chữ chuyển biến ngược giống như nhìn trong kính, bàn tay khép chuyển đến phía trên bên trái, và dùng đến ngày nay.

          Trong “Thuyết văn giải tự” 说文解字có nói;

          Hậu, kế thể quân dã. Tượng nhân chi hình. Thi lệnh dĩ cáo tứ phương …. Phát hiệu giả, quân hậu dã.

          , 继体君也. 像人之形. 施令以告四方 ….. 发号者, 君后也.

          (Hậu là người kế thừa đại thống, chỉnh thể chữ nhìn giống hình người. Quốc quân phát hiệu thi lệnh để bố cáo bốn phương ….. Người phát hiệu lệnh là quốc quân.)

          Trong bộ lạc thị tộc thời thượng cổ, nữ giới có địa vị cao, nhìn chung là người phát hiệu thi lệnh. Lúc bấy giờ, ý nghĩa của “hậu” là chỉ bậc trưởng bối nữ giới có quyền uy. Có thể thấy, “hoàng hậu” 皇后 được xem là chính thê của hoàng đế chính là từ đây mà ra.

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 22/10/2025

Nguồn

TRUNG QUỐC VĂN HOÁ 1000 VẤN

中国文化 1000

Chủ biên: Văn Nhược Ngu 文若愚

Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2015

Previous Post Next Post