破陣子
起囀黄鸝枝上
聲聲喚召三春
芳草綠苔鮮色潤
香氣風飄漫碧雲
武陵花更新
好久今天君到
茶粗酒老皆春
花徑掃過迎远客
若水之交淡洗塵
欣歡穩六神
PHÁ TRẬN TỬ
Khởi
chuyển hoàng li chi thượng
Thanh
thanh hoán triệu tam xuân
Phương
thảo lục đài tiên sắc nhuận
Hương
khí phong phiêu mạn bích vân
Vũ Lăng hoa cánh tân
Hảo cửu
kim thiên quân đáo
Trà
thô tửu lão giai xuân
Hoa
kính tảo qua nghinh viễn khách
Nhược
thuỷ chi giao đạm tẩy trần
Hân hoan ổn lục thần
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 05/9/2025
Tam
xuân 三春: chỉ
mùa xuân. Với âm lịch, người xưa gọi tháng Giêng là Mạnh Xuân 孟春, tháng 2 là Trọng xuân 仲春, tháng 3 là Quý xuân 季春, nên
3 tháng hợp xưng là “tam xuân” 三春.
Vũ
Lăng hoa 武陵花: chỉ
hoa đào. Điển xuất
từ bài Đào hoa nguyên kí 桃花源記 của Đào Tiềm 陶潛 đời Tấn.
Khoảng
niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn, có một người ở Vũ Lăng làm nghề đánh cá. Ngày nọ
ông đi thuyền theo dòng nước, bỗng chợt thấy một rừng hoa đào nở rộ ở hai bên bờ.
Cảm thấy lạ, ông muốn tìm đến tận cùng. Thấy có một cửa động, bên trong dường
như có ánh sáng, ông bèn xuống thuyền đi bộ. Cửa động rất hẹp, chỉ vừa đủ một
người vào, đi dược mấy chục bước đột nhiên không gian rất rộng, đất đai bằng phẳng, nhà cửa chỉnh tề,
ruộng đồng tươi tốt. Người ở đây ăn mặc hoàn toàn khác với người đời. Có người
cảm thấy lạ bèn mời về nhà bày rượu giết gà làm cơm tiếp đãi. Người trong thôn
nghe nói liền kéo đến hỏi thăm. Họ nói tổ tiên của họ vì tránh loạn đời Tần mà
đến nơi đây, sống cách tuyệt với thế giới bên ngoài, chẳng biết bên ngoài đã là
triều đại nào rồi. Người đánh cá lưu lại mấy ngày, sau đó cáo từ. Ông tìm lại
thuyền, thuận theo đường cũ mà quay về, đi qua nơi nào đều làm dấu ghi nhớ. Về
đến quận thành, ông báo cáo với quan Thái thú. Quan Thái thú lập tức sai người
cùng ông đi tìm những nơi đã làm dấu, nhưng cuối cùng bị lạc, tìm không thấy đường
đến nguồn đào.
Hoa
kính tảo 花徑掃: Quét lối hoa. Trong bài Khách chí 客至của Đỗ Phủ 杜甫có câu:
Hoa kính bất tằng
duyên khách tảo
Bồng môn kim thuỷ
vị quân khai.
花徑不曾緣客掃
蓬門今始為君開
(Lối hoa tôi chưa từng vì ai mà
quét
Nhưng cửa bồng hôm nay vì anh mà
mở)
Nhược
thuỷ chi giao 若水之交: Điển xuất từ câu:
Quân tử chi giao đạm
nhược thuỷ
君子之交淡若水
(Quân tử kết giao với nhau thanh
đạm như nước)
Trong
Trang Tử - Sơn mộc 莊子 - 山木có đoạn:
Quân tử chi giao đạm nhược thuỷ, tiểu nhân
chi giao cam nhược lễ; quân tử đạm dĩ thân, tiểu nhân cam dĩ tuyệt.
君子之交淡若水, 小人之交甘若醴; 君子淡以親, 小人甘以絕.
(Quân
tử kết giao với nhau thanh đạm như nước, tiểu nhân kết giao với nhau ngon ngọt
như rượu; quân tử thanh đạm nhưng ngày càng thân thiết, tiểu nhân ngon ngọt
nhưng lại dễ cắt đứt.)
(“Trang Tử kim chú kim dịch” 莊子今注今譯 Trần Cổ Ứng 陳鼓應 chú dịch. Bắc Kinh: Trung Hoa
thư cục, 2007, trang 512)
Trong
Lễ kí – Biểu kí 禮記 - 表記 cũng có đoạn:
Quân tử chi tiếp như thuỷ, tiểu nhân chi tiếp như lễ. Quân tử đạm dĩ thành, tiểu nhân cam dĩ hoại.
君子之接如水, 小人之接如醴. 君子淡以成, 小人甘以壞.
(Quân
tử giao tiếp với nhau như nước, tiểu nhân giao tiếp với nhau như rượu ngon.
Quân tử giao tiếp như nước tuy thanh đạm nhưng nhân đó mà sự việc thành, tiểu
nhân giao tiếp như rượu tuy ngon ngọt nhưng vì thế mà sự việc hư.)
(“Lễ kí dịch giải” 禮記譯解 Vương Văn Cẩm 王文錦 dịch giải. Bắc Kinh: Trung Hoa
thư cục, 2007, trang 819)
Tẩy
trần 洗塵: tẩy
bụi, đây là từ trong lễ nghi xã giao, thường dùng chung với “tiếp phong” 接風, chỉ việc bày tiệc khoản đãi khách từ phương xa đến,
biểu thị sự quan tâm hoan nghinh đối với khách.
Lục thần 六神: theo cách nói của Đạo giáo,
tâm 心
(tim), phế 肺
(phổi), can 肝
(gan), thận 肾
(thận), tì 脾
(lá lách), đảm 胆
(mật) của con người, mỗi bộ phận đều có chủ tể thần linh, gọi đó là “lục thần” 六神, về sau phiếm chỉ tinh thần.
Thành ngữ
“Lục thần bất an” 六神不安
thường dùng để hình dung tâm thần bất định.