西上辞母坟
高盖山头日影微
黄昏独立宿禽稀
林间滴酒空垂泪
不见丁宁嘱早归
(唐. 陈去疾)
TÂY THƯỚNG TỪ MẪU PHẦN
Cao Cái sơn đầu nhật ảnh
vi
Hoàng hôn độc lập túc cầm
hi
Lâm gian đích tửu không
thuỳ lệ
Bất kiến đinh ninh chúc tảo
quy
(Đường . Trần Khứ Tật)
TỪ BIỆT MỘ MẸ ĐI VỀ PHÍA
TÂY
Đầu núi Cao Cái còn lưu lại
ánh nằng chiều ảm đạm
Một mình đứng trong rừng
lúc hoàng hôn, chim chiều thưa thớt bay về tổ
Trước mộ phần của mẹ rưới
rượu mà không ngăn được nước mắt tuôn rơi
Không còn được nghe tiếng mẹ dặn “con nhớ về sớm” trước lúc lên đường.
Chú thích
1-Tây thướng 西上: đi về phía tây.
2-Từ mẫu phần 辞母坟: hướng đến mộ mẹ từ biệt
3-Cao Cái sơn 高盖: núi Cao Cái, tại góc tây nam trong thành phố Phúc Châu 福州 hiện nay.
4-Nhật ảnh 日影: ánh nắng mặt trời.
5-Vi 微: yếu ớt, ảm đạm.
6-Túc cầm 宿禽: chim chiều bay về tổ.
7-Đích tửu 滴酒: rưới rượu cúng trước mộ người đã mất.
8-Đinh ninh 丁宁: cũng viết là 叮咛 tức dặn dò. Ở đây chỉ những lời dặn dò của mẹ trước lúc lên đường.
Phân tích
Du tử từ biệt mẹ lên đường, đã đau buồn, những còn đau buồn
hơn là không còn mẹ để từ biệt, chỉ có mộ phần. Bài thơ này đã bộc lộ tâm tình
của thi nhân trước lúc lên đường đến trước mộ phần của mẹ bái biệt, tình cảm
ngưng đọng đau buồn, khiến người rơi nước mắt.
“Cao Cái sơn đầu nhật ảnh vi. Hoàng hôn độc lập túc cầm
hi” hai câu đầu tả cảnh, thuật lại
hoàn cảnh lúc tế trước mộ; anh nắng chiều ảm đạm, rừng cây nơi đầu núi, chốc chốc
có tiếng kêu của chim chiều bay về tổ. Câu đầu miêu tả tình hình nơi mộ, lấy “nhật
ảnh vi” để khái quát cảnh hoàng hôn nơi mộ phần. Cảnh tượng ảm đạm đó đã tô
đậm thêm nỗi đau buồn. với một chữ “vi” cũng khiến cảnh thê lương tăng
lên gấp bội. Câu tiếp theo, miêu tả thi nhân đứng thật lâu trước mộ, cho đến
lúc chim chiều dường như đã bay về hết. “Túc cầm hi” không những biểu hiện
sắc chiều nồng đậm, mà còn thấy thời gian di động, phản ánh thi nhân “độc lập”
rất lâu để hoài niệm mẫu thân.
“Lâm gian đích tửu không thuỳ lệ. Bất kiến đinh ninh
chúc tảo quy” , hai câu này nối theo cảnh thê lương của hai câu trước, trực
tiếp bộ lộ tỉnh cảm đau buồn. Lúc cúng trước mộ chỉ có tuôn rơi nước mắt, không
còn được nghe tiếng mẹ dặn dò về sớm như mọi ngày. Câu thứ 3, rưới rượu đau buồn
bái biệt mẹ, cuối câu thêm vào nguyên nhân “không thuỳ lệ”. Thi nhân hướng
ngòi bút về mẹ, chọn lấy giác độ có sức biểu hiện phong phú, khắc hoạ hình tượng
từ mẫu. Mỗi khi người con rời nhà lên đường đi xa, người mẹ luôn dặn dò: “Con
nhớ về sớm, con nhớ về sớm”. Thi nhân không khắc hoạ mẫu thân lúc sinh tiền
quan tâm về mọi mặt đến người con, mà chỉ đột xuất vang lên tiếng “tảo quy”
(con nhớ về sớm), biểu hiện tình yêu thương của mẹ cực chân thành. Xưa nay những
lời điển hình lúc mẹ từ biệt con, bao hàm vô số những lời trông mong và chúc
phúc, “ân ân chi tình”, “thiết thiết chi ý” khiến người ta liên tưởng đến người
mẹ mà Mạnh Giao 孟郊đã viết:
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
临行密密缝
意恐迟迟归
(Lúc con sắp đi xa, mẹ cặm cụi may thật chắc
Ý sợ là con chưa về mà áo đã rách)
Nhưng hiện tại, không còn được nghe những lời dặn của mẹ,
trước mặt thi nhân chỉ có một nấm mộ đất vàng vô tình, khiến thi nhân cảm nhận
được nỗi đau xé lòng. Câu cuối cùng có sức lay động tình cảm mãnh liệt.
Sự thành công của bài thơ ở chỗ chất phác chân thành, tình yêu thương của người mẹ và tình yêu thương của người con đều hiển lộ một cách tự nhiên, từ đó có được sự đồng cảm của mọi người.
Vài hàng về tác giả
Trần Khứ Tật 陈去疾: không rõ năm sinh năm mất, tự Văn Y 文医, người huyện Hầu Quan 侯官 (nay là phía tây bắc Phúc Châu 福州 Phúc Kiến 福建), đậu Tiến sĩ thời niên hiệu Khai Thành 开成(niên hiệu của Đường Văn Tông Lí Ngang 唐文宗李昂), giữ chức chức Giang Châu Tư hộ Tham quân 江州司户参军. Thời Hội Xương 会昌(niên hiệu của Đường Vũ Tông Lí Viêm 唐武宗李炎), là Thái Châu Tư mã quyền Tri châu权知州事 sự 蔡州司马, làm Nghĩa vũ quân Tiết độ phán quan 义武军节度判. Cuối cùng là Ung Quản Quan sát phó sứ 邕管观察副使. Trong “Toàn Đường thi” 全唐诗 hiện tồn 13 bài thơ của ông.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/9/2025
(Vu Lan năm Ất Tị)
Nguồn
https://baike.baidu.com/item/%E8%A5%BF%E4%B8%8A%E8%BE%9E%E6%AF%8D%E5%9D%9F/12548692