送母回乡
停车茫茫顾
困我成楚囚
感伤从中起
悲泪哽在喉
慈母方病重
欲将名医投
车接今在急
天竟情不留
母爱无所报
人生更何求
(唐李商隐)
TỐNG MẪU HỒI HƯƠNG
Đình xa mang mang cố
Khốn ngã thành Sở tù
Cảm thương tùng trung khởi
Bi lệ ngạnh tại hầu
Từ mẫu phương bệnh trọng
Dục tương danh y đầu
Xa tiếp kim tại cấp
Thiên cánh tình bất lưu
Mẫu ái vô sở báo
Nhân sinh cánh hà cầu
(Đường . Lí Thương Ẩn)
Tạm dịch
ĐƯA MẸ VỀ QUÊ
Ta dừng xe lại nhìn bốn
phía mênh mông,
Bản thân ở vào cảnh khốn
quẫn như tù nhân nước Sở.
Tình cảm đau buồn từ đó
trổi lên,
Nước mắt đau thương rơi
xuống làm nghẹn cả giọng.
Bệnh mẹ mới trở nặng,
Muốn tìm danh y đưa mẹ
đến chữa trị.
Xe vừa đến đón mẹ,
Trời cao vô tình đã không
để mẹ ở lại.
Nếu tình yêu thương của
mẹ không cách nào báo đáp
Thì cuộc sống còn có gì đáng để truy cầu?
Sở tù 楚囚: vốn chỉ Chung Nghi 钟仪người nước Sở thời Xuân Thu bị bắt đưa đến nước Tấn, về sau “Sở tù” được mượn dùng để chỉ người ở vào hoàn cảnh quẫn bách.
Phân tích
Bài thơ này tuy từ ngữ chân thành giản dị, nhưng biểu đạt
được nỗi niềm đau thương của thi nhân đối với mẹ và tình cảm sâu xa đối với
tình yêu thương của mẹ.
Mở đầu bài thơ, thông qua hai câu “Đình xa mang mang cố.
Khốn ngã thành Sở tù.” 停车茫茫顾. 困我成楚囚 đã biểu hiện một
cách hình tượng cảnh quẫn bách không ai giúp đỡ của thi nhân. Với hai câu “Cảm
thương tùng trung khởi. Bi lệ ngạnh tại hầu” 感伤从中起. 悲泪哽在喉, trực tiếp biểu đạt tình cảm bi thương ở nội tâm. Tiếp đó,
thuật lại tình huống bệnh của mẹ trở nặng, muốn tìm danh y chữa trị, và xe đến
đến đón đưa đi, nhưng rốt cuộc không biết làm thế nào với sự vô tình của trời
cao. Hai câu cuối “Mẫu ái vô sở báo. Nhân sinh cánh hà cầu” 母爱无所报. 人生更何求đã truyền đạt một cách
sâu sắc lòng biết ơn của thi nhân đối với tình yêu thương của mẹ, đồng thời
cũng thể hiện sự vĩ đại ở tình yêu của mẹ. Thi nhân cho rằng, nếu đã không thể
báo đáp được tình yêu thương của mẹ, thì cuộc sống không còn có gì đáng để truy
cầu.
Cả bài thơ tình cảm chân thành, ngôn ngữ chất phác, khắc hoạ một cách sinh động sự đau khổ của nhà thơ trong lúc mẹ bệnh nặng và sự trân quý đối với tình yêu thương của mẹ.
Lí Thương Ẩn 李商隐 (813 – 858): tự Nghĩa Sơn 义山, hiệu Ngọc Khê Sinh 玉谿生, người Hà Nội 河内Hoài Châu 怀州(nay là Thấm Dương 沁阳Hà Nam), là một trong
những thi nhân xuất sắc thời Vãn Đường, cùng với Đỗ Mục 杜牧hợp xưng là “Tiểu Lí Đỗ” 小李杜, với Ôn Đình Quân 温庭筠hợp xưng là “Ôn Lí” 温李. Ông một đời bất đắc
chi, sau khi mất được an táng tại quê nhà Thấm Dương. Tác phẩm của ông được thu
thập biên soạn thành bộ “Lí Nghĩa Sơn thi tập” 李义山诗集.
Chú của người dịch
Một số tư liệu cho tác giả của bài “Tống mẫu hồi hương” 送母回乡không phải là Lí Thương Ẩn 李商隐, mà là của Ngụ Chân 寓真 (vốn tên Lí Ngọc Trăn 李玉臻) cũng là thi nhân đời Đường. Bài này nguyên được trích từ “Bạo vũ đồ trung nhị thập vận” 暴雨途中二十韵, về sau trong quá trình lưu truyền bị nhầm là của Lí Thương Ẩn.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 05/9/2025
Nguồn
https://meirishici.com/poetry/zdi2