莫思歸
金井伴梧桐
秋來雁信空
菊花黄小路
江上點孤篷
片葉炊烟落
桂香淡又濃
MẠC TƯ QUY
Kim tỉnh
bạn ngô đồng
Thu
lai nhạn tín không
Cúc
hoa hoàng tiểu lộ
Giang
thượng điểm cô bồng
Phiến
diệp xuy yên lạc
Quế hương đạm hựu nùng
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 29/9/2025
Mạc
tư quy 莫思歸: từ
bài danh, còn gọi là “Phao cầu lạc” 拋球樂,
chính thể đơn điệu gồm 6 câu 30 chữ với
4 vần bằng, ngoài ra còn có những biến thể khác.
Kim tỉnh bạn ngô đồng 金井伴梧桐: Giếng vàng làm bạn với cây ngô đồng.
Giếng vàng: dịch từ “kim tỉnh” 金井. Thời cổ, người ta
dùng gỗ gác từ dưới giếng lên để giữ cho vách giếng khỏi bị sụp, phần nhô lên mặt
đất gọi là “tỉnh lan” 井栏. Giếng mà “tỉnh
lan” có chạm trỗ gọi là “kim tỉnh”.
Ở thơ cổ và từ cổ Trung Quốc,
thường bắt gặp hình ảnh cây ngô đồng bên giếng, như:
Trong Tặng biệt Xá nhân đệ Thai Khanh chi Giang
Ngô đồng lạc kim tỉnh
Nhất diệp phi ngân sàng
梧桐落金井
一叶飞银床
(Lá ngô đồng rụng xuống giếng vàng
Có lá còn bay đến bên giường bạc)
Trong Trường Tín oán (Kim tỉnh ngô đồng
thu diệp hoàng) 长信怨 (金井梧桐秋叶黄) của Vương Xương Linh 王昌龄 có câu:
Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng
Châu liêm bất quyển dạ lai sương
金井梧桐秋叶黄
珠帘不卷夜来霜
(Cây ngô đồng bên giếng vàng, lá vào thu đã trở vàng
Rèm châu không cuốn lên, đêm mang sương đến)
Trong văn học, chủ đề biểu đạt của ngô đồng thường
chỉ sự nhớ quê hương, nhớ người thân chốn quê nhà.
Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” cũng đã viết:
Thú
quê thuần hức bén mùi
Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô
(câu 1593 – 1594)
Tín
信: chữ
“tín” ở đây dùng như động từ, có nghĩa là “giữ chữ tín”, “không sai trật”. Cả
câu: cứ đến mùa thu là chim nhạn xuất hiện trên bầu trời.
Hoàng
黄: chữ
“hoàng” ở đây cũng dùng như động từ, có nghĩa là “làm cho ,,, vàng”.
Xuy yên 炊烟: khói bếp.
Tạm dịch
Giếng
vàng bạn với ngô đồng
Thu về,
nhạn lại trên không
Hoa
cúc trổ vàng lối nhỏ
Trên
sông cô lẻ thuyền bồng
Chiếc
lá rơi trong khói bếp
Hương
quế man mác nhạt nồng
