Sáng tác: Ẩm tửu tiêu sầu - Tam vạn lục thiên thiên thí toán (HCH)

 

飲酒消愁

三萬六千天試算

眼前來蜉蝣景笑看

爲何尋世擾以閑

疏忽兩三杯消遣

斷送一生惟有酒

沉思百計不如閒

看南山隱約裡韶光

回首瞥九寰真亦小

天地間古今今古

這形骸無有有無

萬鍾千駟久乎

ẨM TỬU TIÊU SẦU

Tam vạn lục thiên thiên thí toán

Nhãn tiền lai, phù du cảnh tiếu khan

Vị hà, tầm thế nhiễu dĩ nhàn

Sơ hốt lưỡng tam bôi tiêu khiển

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu

Trầm tư bách kế bất như nhàn

Khán Nam sơn, ẩn ước lí thiều quang

Hồi thủ miết, cửu hoàn chân diệc tiểu

Thiên địa gian: cổ kim, kim cổ

Giá hình hài: vô hữu, hữu vô

Vạn chung thiên tứ cửu hồ? 

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 26/9/2025 

Chú của người dịch

1-Vị hà 爲何: hà cớ gì phải …

2-Sơ hốt 疏忽: qua loa,

3-Hai câu 5,6: Hai câu này, Cao Bá Quát mượn từ bài “Du thành nam thập lục thủ - Khiển hứng” 遊城南十六首 - 遣興của Hàn Dũ 韓愈đời Đường.

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu

Tầm tư bách kế bất như nhàn

斷送一生惟有酒

尋思百計不如閑

(Thứ tốt nhất làm cho thời gian trôi qua đi chỉ có rượu

Tìm kiếm suy tư trăm ngàn kế chẳng bằng an nhàn)

4-Ẩn ước 隱約: thấp thoáng, như ẩn như hiện.

5-Miết : liếc nhìn.

6-Cửu hồ 久乎: có trường cửu được chăng?

          Bài này tạm dịch từ bài bài “Uống rượu tiêu sầu” của Cao Bá Quát.

UỐNG RƯỢU TIÊU SẦU

Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời

Tiêu khiển một vài chung lếu láo

斷送一生惟有酒

Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu

沉思百計不如閒

Trầm tư bách kế bất như nhàn

Dưới thiều quang thấp thoáng bóng Nam san

Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ

Khoảng trời đất: cổ kim, kim cổ

Mảnh hình hài: không có, có không

Lọ là thiên tứ, vạn chung. 

Chú thích

1-Phù du 蜉蝣: con vờ, một thứ trùng nhỏ, sống dưới nước, mau chết lắm.

2-Câu 5,6: Dứt hẳn cuộc đời chỉ có rượu; nghĩ ngợi trăm kế, không có gì bằng nhàn.

3-Thiều quang 韶光: ánh sáng đẹp mùa xuân.

4-Nam san 南山: tức núi Chung Nam bên Tàu, nơi các ẩn sĩ thường tới ở.

5-Cửu hoàn 九寰: vũ trụ (chín cõi).

5-Thiên tứ vạn chung 千駟萬鍾: chỉ sự giàu sang. Nghìn cỗ xe bốn ngựa và vạn chung thóc: đó là bổng lộc mà các bậc phong hầu thời phong kiến được hưởng.

          (“Việt văn độc bản”. Lớp Đệ Nhị: Đàm Xuân Thiều – Trần Trọng San. Bộ Văn hoá Giáo dục, 1965)

Previous Post Next Post