Dịch thuật: Lai lịch của tính thị (tiếp theo)

 

LAI LỊCH CỦA TÍNH THỊ

(tiếp theo)

          Thị xuất hiện sớm nhất ở thời kì xã hội thị tộc phụ hệ. Vào thời kì này, nam chiếm địa vị chủ đạo thay thế nữ. Thị là kế thừa từ thuỷ tổ phụ hệ mà ra, và chỉ có đàn ông mới xưng thị, từ trong tông tộc cùng một tính xuất hiện sự sai biệt về giàu nghèo và đẳng cấp mà phân hoá ra, nhân đó trên cơ sở quan hệ huyết thống vốn có phân tán thành các chi khác nhau. Những phân chi này từ vùng đất tập trung vốn có sau khi dời đi nơi khác, phân tán ở các địa vực khác nhau, dùng những “thị” khác nhau để mệnh danh. Người xưa dùng thị để khu biệt sự cao thấp sang hèn về thân phận, địa vị, công đức, kĩ năng và dũng lực …  Trong “Bạch Hổ thông nghĩa – Tính danh” 白虎通义 - 姓名có chép:

Sở dĩ hữu thị giả hà? Sở dĩ quý công đức, tiện kĩ lực.

所以有氏者何? 所以贵功德, 贱伎力

          (Vì sao có thị? Nhân vì quý trọng đức hạnh công nghiệp, coi thường kĩ năng và dũng lực.)

          Nói chung, quý tộc, bình dân đều có thể dùng thị , chỉ có điều là có một số thị là dành cho quý tộc. Bình dân cho dù có thị, đối với quý tộc công cao đức trọng mà nói thì cũng tương đối thấp kém, ví dụ như “Đồ thị” 屠氏làm nghề giết mổ, chăn nuôi.

          Bắt đầu từ thời kì xã hội thị tộc phụ hệ, chế độ song hành tính và thị được xác lập. Thời Hạ, Thương, Chu, chế độ song hành tính thị vẫn còn tiếp tục, ví dụ đời Hạ, quốc quân lấy “Tự” làm tính, lấy “Hạ” làm thị; đời Thương, quốc quân lấy “Tử” làm tính, lấy “Thương” làm thị; đời Chu, quốc quân lấy “Cơ” làm tính, lấy “Chu” làm thị.

          Đời Hạ (khoảng năm 2070 – năm 1600 trước công nguyên), xã hội chế độ nô lệ kiến lập đồng thời dần từng bước hoàn thiện, địa vị và tác dụng của nam dần cao hơn nữ, hơn nữa chịu ảnh hưởng phạm vi hoạt động nhân loại rộng lớn, quan hệ huyết thống mẫu hệ mà “tính” là đại biểu có xu hướng tan rã, không còn có tác dụng thực tế “biệt hôn nhân” 別婚姻 (phân biệt trong hôn nhân), còn “thị” trên cơ sở chế độ tông pháp dần phát triển.

          Thời Tây Chu (năm 1046 – năm 771 trước công nguyên), vương triều Chu thực hành chế độ phân phong, “tộ chi thổ nhi mệnh chi thị” 胙之土而命之氏 (phân phong thổ địa (tộ thổ 胙土), xác lập thị để xưng (mệnh thị 命氏).) nhằm củng cố chính quyền quốc gia. Chế độ phân phong chính là đem vương tộc đồng tính, bề tôi có công và thủ lĩnh bộ lạc đời trước, phân phong đến các nơi làm chư hầu, kiến lập chư hầu quốc, đồng thời căn cứ vào vùng đất sở tại của họ mà ban cho họ “thị” , thị đại biểu cho gia tộc này có thể kế thừa. Phân chi cùng một thị không ngừng tăng nhiều, làm cho số lượng thị ở thời kì này theo đó mà tăng lên. Ngoài việc lấy quốc gia, địa danh làm thị ra, người xưa còn thường dùng quan chức, thuỵ hiệu (là xưng hiệu mà người đời sau truy tặng cho kẻ thống trị hoặc người có địa vị sau khi mất), chức nghiệp v.v… làm thị .

          Thời Xuân Thu (năm 770 – năm 221 trước công nguyên), quốc lực nhà Chu suy yếu, các chư hầu cát cứ chiếm lấy đất đai, tranh đoạt bá quyền, chế độ phân phong vốn có bị tan rã, thị vốn đại biểu cho địa vị cao thấp, thân phận sang hèn cũng dần mất đi tác dụng. Giới hạn giữa tính và thị dần mơ hồ, thậm chí bắt đầu dùng thông nhau. Trước đó, tính và thị khu biệt rất nghiêm cách, chủ yếu có 3 tác dụng:

          -Thị và tính khu biệt là để nam (thị) và nữ (tính) dùng.

          -Dùng để phân biệt sự sang hèn của giai cấp.

          -Để cho việc chọn lựa trong hôn nhân tốt hơn, người cùng thị mà không cùng tính thì có thể kết hôn; người mà cùng tính nhưng không cùng thị thì không thể kết hôn.

          Thời Tần Hán (năm 221 trước công nguyên – năm 220), quốc gia phong kiến thống nhất thay thế quốc gia theo chế độ nô lệ, thị đại biểu cho địa vị xã hội cũng mất đi tác dụng “biệt quý tiện” 別贵贱 (phân biệt sang hèn), sai biệt cũng không lớn đối với tính tiêu chí cho mối quan hệ huyết thống gia tộc. Hơn nữa theo sự sinh sôi nảy nở của nhân loại, tính địa vực của tính thị 姓氏dần mở rộng, tục cấm kị “đồng tính bất hôn” 同姓不婚 (cùng một tính không kết hôn) cũng bị đả phá. Tư Mã Thiên 司马迁  trong tác phẩm “Sử kí” 史记 xưng Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 là “tính Triệu thị” 姓赵氏 (tính là Triệu thị), xưng Hán Cao Tổ 汉高祖 là “tính Lưu thị” 姓刘氏 (tính là Lưu thị), đã tiêu chí cho tính và thị bắt đầu dùng chung, hoặc giả kiêm xưng “tính thị” 姓氏, chế độ hợp cả hai làm một được xác lập, sự thống nhất giữa tính và thị khiến cho số lượng tính thị Trung Quốc và nội hàm văn hoá có được sự phong phú cực lớn.    (hết) 

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 29/7/2025

Nguồn

TRUNG QUỐC TÍNH THỊ

中国姓氏

Biên soạn: Thượng Quan Ngôn Linh 上官言灵

Hợp Phì: Hoàng Sơn thư xã, 2014

Previous Post Next Post