Sáng tác: Thập phách tử - Kỉ độ thanh phong minh nguyệt (HCH)

 

十拍子

幾度清風明月

花開花落鳥鳴

溪澗閑談排小酌

酬酢傾壺淡水情 

淙淙聽水聲

世事升沉莫問

南柯蝴蝶人生

朝暮青絲成白雪

長路崎嶇有辱榮

靜乎辨重輕

 THẬP PHÁCH TỬ

Kỉ độ thanh phong minh nguyệt

Hoa khai hoa lạc điểu minh

Khê giản nhàn đàm bài tiểu chước

Thù tạc khuynh hồ đạm thuỷ tình

Tông tông thính thuỷ thanh

Thế sự thăng trầm mạc vấn

Nam kha hồ điệp nhân sinh

Triêu mộ thanh ti thành bạch tuyết

Trường lộ khi khu hữu nhục vinh

Tĩnh hồ biện trọng khinh

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 01/6/2025 

Thù tạc 酬酢: mời rượu qua lại giữa chủ và khách. Chủ rót mời khách gọi là thù ; khách rót mời lại chủ gọi là tạc .

Đạm thuỷ 淡水: Điển xuất từ câu:

Quân tử chi giao đạm nhược thuỷ

君子之交淡若水

(Quân tử kết giao với nhau thanh đạm như nước)

          Trong Trang Tử - Sơn mộc 莊子 - 山木có đoạn:

          Quân tử chi giao đạm nhược thuỷ, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ; quân tử đạm dĩ thân, tiểu nhân cam dĩ tuyệt.

          君子之交淡若水, 小人之交甘若醴; 君子淡以親, 小人甘以絕.

          (Quân tử kết giao với nhau thanh đạm như nước, tiểu nhân kết giao với nhau ngon ngọt như rượu; quân tử thanh đạm nhưng ngày càng thân thiết, tiểu nhân ngon ngọt nhưng lại dễ cắt đứt.)

          (“Trang Tử kim chú kim dịch” 莊子今注今譯 Trần Cổ Ứng 陳鼓應 chú dịch. Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2007, trang 512)

          Trong Lễ kí – Biểu kí 禮記 - 表記 cũng có đoạn:

          Quân tử chi tiếp như thuỷ, tiểu nhân chi tiếp như lễ. Quân tử đạm dĩ thành, tiểu nhân cam dĩ hoại.

          君子之接如水, 小人之接如醴. 君子淡以成, 小人甘以壞.

          (Quân tử giao tiếp với nhau như nước, tiểu nhân giao tiếp với nhau như rượu ngon. Quân tử giao tiếp như nước tuy thanh đạm nhưng nhân đó mà sự việc thành, tiểu nhân giao tiếp như rượu tuy ngon ngọt nhưng vì thế mà sự việc hư.)

          (“Lễ kí dịch giải” 禮記譯解  Vương Văn Cẩm 王文錦 dịch giải. Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2007, trang 819)

Tông tông 淙淙: (tiếng nước chảy) róc rách.

Thế sự thăng trầm mạc vấn 世事升沉莫問: mượn từ bài “Ngán đời” của Cao Bá Quát:

世事升沉君莫問

烟波深處有漁舟

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn

Yên ba thâm xứ hữu ngư châu

(Việc đời lên xuống, bạn chẳng nên hỏi

Trong chỗ khói sông mù mịt, có chiếc thuyền của ông đánh cá)

          Hai câu này mượn trong thơ Đường.

          (Theo: “Việt văn độc bản” lớp Đệ Nhị của Đàm Xuân Thiều, Trần Trọng San, Bộ Văn hóa Giáo dục xuất bản, 1965)

          Phan Dung 潘榕 (1865 – 1929) đời Thanh trong bài từ theo điệu “Kim lũ khúc” 金缕曲cũng có viết:

世事升沉君莫問

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn

Nam Kha 南柯: Điển xuất từ thành ngữ Nam Kha nhất mộng 南柯一夢.

          Theo Nam kha Thái thú truyện 南柯太首傳của Lí Công Tá 李公佐đời Đường:

          Thời Đường có một người tên Thuần Vu Phần 淳于棼, cư trú tại phía đông quận Quảng Lăng 廣陵. Phía nam của nhà có một cây hoè cổ vừa cao vừa lớn, cành lá sum suê, phủ đầy bóng mát trên mặt đất.

          Ngày nọ, Thuần Vu Phần cùng bạn bè hóng mát dưới cây hoè, rượu uống đến say. Trời tối bạn bè ra về, riêng Thuần Vu Phần nằm dưới gốc cây, mơ mơ hồ hố đi vào giấc mộng. Trong mộng thấy có người mặc áo tía dẫn ông đến nước Đại Hoè An 大槐安tiếp kiến quốc vương. Quốc Vương bèn gả công chúa, còn phong ông làm Nam Kha Thái thú 南柯太首. Ông cùng vợ sinh được hai người con, hưởng tận vinh hoa phú quý hơn 20 năm.

          Một năm nọ, quân địch đến xâm phạm biên cương, quân của Đại Hoè An quốc nhiều lần bị đánh bại. Tể tướng liền tiến cử Thuần Vu Phần đem binh nghinh chiến. Nhưng vì Thuần Vu Phần không biết binh pháp, trận chiến đại bại, suýt bị bắt làm tù binh. Hoàng đế chấn kinh, bãi truất chức vụ của ông, cho về quê.

          Thuần Vu Phần tỉnh mộng, nhìn thấy trên cây hoè có một tổ kiến lớn, mới biết rằng Nam Kha quận chẳng qua là cành cây hoè ở phía nam.

          Người đời sau căn cứ vào câu chuyện này khái quát nên thành ngữ “Nam Kha nhất mộng” 南柯一夢 để ví cuộc đời như giấc mộng, vinh hoa phú quý vô thường.

https://www.epochtimes.com/b5/12/5/11/n3587088.htm

Hồ điệp 蝴蝶: tức điển Trang Chu hoá bướm xuất từ “Trang Tử - Tề vật luận” 庄子 - 齐物论.

          昔者庄周梦为胡蝶, 栩栩然胡蝶也, 自喻适志与! 不知周也. 俄然觉, 則蘧蘧然周也. 不知周之梦为胡蝶与, 胡蝶之梦为周与? 周与胡蝶, 則必有分矣. 此之谓物化.

          Tích giả Trang Chu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dã, tự dụ thích chí dư! Bất tri Chu dã. Nga nhiên giáo, tắc cừ cừ nhiên Chu dã. Bất tri Chu chi mộng vi hồ điệp dư, hồ điệp chi mộng vi Chu dư? Chu dữ hồ điệp, tắc tất hữu phân hĩ. Thử chi vị vật hoá.

          (Ngày trước, Trang Chu nằm mộng thấy mình hoá thành con bướm, bướm sinh động đáng yêu, tự cảm thấy đắc ý vui thích, mà không biết bản thân mình vốn là Trang Chu. Đột nhiên thức giấc, kinh hoàng thấy rõ mình là Trang Chu. Không biết là Trang Chu nằm mộng biến thành con bướm, hay bướm nằm mộng biến thành Trang Chu. Trang Chu và bướm nhất định phải có sự khu biệt. Đây có thể gọi là vật hoá.)

https://www.gushiwen.cn/shiwenv_152c3b2ca31e.aspx

          Từ câu chuyện trên, thành ngữ Trung Quốc có câu “Trang Chu mộng điệp” 庄周梦蝶, thường được mượn để chỉ giấc mộng kì diệu, hoặc dùng để ví nhân sinh biến hoá vô thường.

Triêu mộ thanh ti thành bạch tuyết 朝暮青絲成白雪: mượn từ bài “Tương tiến tửu” 將進酒của Lí Bạch 李白.

君不見高堂明鏡悲白髮

朝如青絲,暮成雪

Quân bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát

Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết

(Anh chẳng thấy sao, nơi cao đường soi kính, buồn cho mái đầu đã bạc,

Sáng sớm tóc hãy còn xanh, đến chiều tối đã trắng như tuyết)

Khi khu 崎嶇: gập ghềnh, khúc khuỷu.

 

Previous Post Next Post