君臣
國有諍臣是福
國無奸佞必昌
君淡臣鹹得治
君甘臣甘多殃
自古前車之覆
因此後車以方
欲求永長國祚
衹要君明臣良
四季風調雨順
黎元喜樂安康
QUÂN THẦN
Quốc
hữu tránh thần thị phúc
Quốc
vô gian nịnh tất xương
Quân
đạm thần hàm đắc trị
Quân
cam thần cam đa ương
Tự cổ
tiền xa chi phúc
Nhân
thử hậu xa dĩ phương
Dục cầu
vĩnh trường quốc tộ
Chỉ yếu
quân minh thần lương
Tứ
quý phong điều vũ thuận
Lê nguyên hỉ lạc an khương
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 26/6/2025
Tránh thần 諍臣: bề
tôi trung trực dám can ngăn những sai lầm của vị quân chủ.
Tránh 諍 : có nghĩa là dám trực ngôn
can gián.
Xuất xứ từ Hiếu kinh 孝經, chương thứ 15 Tránh
thần 諍臣:
Tăng
Tử viết: “Nhược phù từ ái, cung kính, an thân, dương danh, tắc văn mệnh hĩ. Cảm
vấn tử tùng phụ lệnh, khả vị hiếu hồ?”
Tử viết:”Thị hà ngôn dư? Thị hà ngôn dư? Tích giả thiên tử
hữu tránh thần thất nhân, tuy vô đạo, bất thất kì thiên hạ. Chư hầu hữu tránh
thần ngũ nhân, tuy vô đạo, bất thất kì quốc. Đại phu hữu tránh thần tam nhân,
tuy vô đạo, bất thất kì gia. Sĩ hữu tránh hữu, tắc thân bất li vu lệnh danh. Phụ
hữu tránh tử, tắc thân bất hãm vu bất nghĩa. Cố đương bất nghĩa, tắc tử bất khả
dĩ bất tránh vu phụ, thần bất khả dĩ bất tránh vu quân. Cố đương bất nghĩa tắc
tránh chi, tùng phụ chi lệnh, hựu yên đắc vi hiếu hồ?”
曾子曰: “若夫慈爱, 恭敬, 安亲, 扬名, 则闻命矣. 敢问子从父令, 可谓孝乎?”
子曰: “是何言与? 是何言与? 昔者天子有诤臣七人, 虽无道, 不七其天下. 诸侯有诤臣五人, 虽无道, 不七其国. 大夫有诤臣三人, 虽无道不七其家. 士有诤友, 则身不离于令名. 父有诤子, 则身不陷于不义. 故当不义, 则子不可以不诤于父, 臣不可以不诤于君. 故当不义则诤之, 从父之令, 又焉得为孝乎?”
(Tăng Tử nói rằng: “Những đạo hiếu như
từ ái, cung kính, làm cho cha mẹ được yên vui, dương danh với đời, thì đã nghe
thầy dạy qua rồi. Nay con mạo muội được hỏi, làm con nghe theo mệnh lệnh của
cha, có thể được gọi là hiếu chăng?”
Khổng Tử bảo rằng: “Sao lại nói vậy?
sao lại nói vậy? Ngày trước thiên tử có 7 bề tôi dám can gián, tuy là vô đạo,
nhưng không mất thiên hạ. Chư hầu có 5 bề tôi dám can gián, tuy vô đạo, nhưng
không mất nước. Đại phu có 3 bề tôi dám can gián, tuy vô đạo, những cũng không
mất nhà. Kẻ sĩ có bạn dám can ngăn, thì bản thân không mất đi danh dự. Cha có
con dám can ngăn, thì bản thân không rơi vào chỗ bất nghĩa. Cho nên khi thấy
làm điều bất nghĩa, thì con không thể không can ngăn cha, bề tôi không thể
không can gián vua. Vì thế khi thấy làm điều bất nghĩa thì phải can gián, chỉ
biết nghe theo mệnh lệnh của cha, thì sao được gọi là hiếu được?”)
(https://zhidao.baidu.com/question/535660312.html)
“Quân đạm
thần hàm” 君淡臣鹹 (咸) và “quân cam thần cam” 君甘臣甘: điển
xuất từ “Án Tử Xuân Thu” 晏子春秋:
……… Lương
Khâu Cứ ngự lục mã nhi lai. Công viết: “Thị thuỳ dã?” Án Tử viết: “Cứ dã.” Công
viết: “Hà tri?” Viết: “Đại thử nhi tật trì, thậm giả mã tử, bạc giả mã thương,
phi Cứ thục cảm vi chi?” Công viết: “Cứ dữ ngã hoà giả phù (2)!” Án
Tử viết: “Thử sở vị đồng dã (3). Sở vị hoà giả. Quân cam tắc thần
toan, quân đạm tắc thần hàm (4). Kim Cứ dã, quân cam diệc cam, sở vị
đồng dã, an đắc vi hoà?” Công phẫn nhiên tác sắc, bất duyệt.
…….. 梁丘据御六马而来. 公曰: “是谁也?” 晏子曰: “据也.” 公曰: “何知?” 曰: “大暑而疾驰, 甚者马死, 薄者马伤, 非据孰敢为之?” 公曰: “据与我和者夫 (2)!” 晏子曰: “此所谓同也 (3). 所谓和者, 君甘则臣酸, 君淡则臣咸 (4). 今据也, 君甘亦甘, 所谓同也, 安得为和?” 公忿然作色, 不说.
(…….
Lương Khâu Cứ đánh xe do 6 ngựa kéo từ xa tới. Cảnh Công hỏi: “Đó là ai vậy?”
Án Tử đáp rằng: “Đó là Lương Khâu Cứ.” Cảnh Công lại hỏi: “Sao khanh lại biết?”
Án Tử đáp rằng: “Trời nắng gắt mà lại đánh xe quá nhanh, nghiêm trọng thì ngựa
sẽ chết, nhẹ hơn thì ngựa sẽ bị tổn thương, nếu không phải là Lương Khâu Cứ thì
ai mà dám làm như thế?” Cảnh Công nói rằng: “Lương Khâu Cứ hài hoà với ta rồi.”
Án Tử đáp rằng: “Đó gọi là tương đồng. Điều mà gọi là hài hoà, lấy mùi vị để
ví, nếu vị quân chủ mà ngọt thì bề tôi phải chua, vị quân chủ mà nhạt thì bề
tôi phải mặn. Nay như Lương Khâu Cứ, vị quân chủ ngọt thì ông ta cũng ngọt, thì
đó gọi là tương đồng, sao có thể cho là hài hoà được?” Cảnh Công giận, mặt biến
sắc lộ vẻ không vui.
(Dịch chú: Trần Đào 陈涛. Trung
Hoa thư cục, 2007.)
Tiền xa
chi phúc 前車之覆: điển xuất từ câu “tiền xa chi phúc,
hậu xa chi giám” 前車之覆, 後車之鑑 xe trước đổ là cái gương cho
xe sau.
Trong Tuân Tử - Thành tương 荀子 - 成相có câu:
Tiền xa dĩ phúc, hậu vị tri
canh, hà giác thời.
前车已覆,后未知更, 何觉时
(Xe trước đã đổ, mà xe sau chưa biết lấy đó để thay đổi,
thì biết bao giờ mới giác ngộ đây)
(“Tuân tử giản chú” 荀子简注:
Chương Thi Đồng 章诗同chú. Thượng Hải nhân dân xuất bản xã, 1974)
Trong Thuyết
uyển 说苑 - 善说của Lưu Hướng 刘向đời Hán có ghi:
“Chu thư” viết: ‘Tiền xa phúc, hậu xa giới’
“周书”曰:‘前车覆.后车戒’
(Trong “Chu thư” có nói: ‘Xe trước đổ là điều răn cho xe sau’.)
Từ đó, thành ngữ Trung Quốc có câu: “Tiền xa chi giám” 前车之鉴hoặc “Tiền xa khả giám” 前车可鉴 dùng để ví sự thất bại trước đây là bài học cho sau này.
Quân minh
thần lương 君明臣良: vua
sáng tôi hiền, mượn từ lời tựa ở một bài thơ của Lê Thánh Tông.
Ngự chế: Dư tĩnh toạ thâm cung, hà tư cổ tích, quân minh
thần lương, dữ đương kim cơ nghiệp chi thịnh, ngẫu thành nhất luật.
御製: 予靜坐深宮, 遐思古昔, 君明臣良, 與當今基業之盛, 偶成一律.
(Ta
ngồi tĩnh lặng trong cung, nghĩ đến chuyện xưa, vua sáng tôi hiền, cùng với sự
hưng thịnh của cơ nghiệp ngày nay, ngẫu hứng mà làm ra bài thơ này.)
(Theo
Thi viện)
Lê nguyên 黎元: Tức bách tính, dân chúng. Điển
xuất từ trong Xuân Thu phồn lộ 春秋繁露 của Đổng
Trọng Thư 董仲舒đời
Hán:
Cứu chi giả, tỉnh cung thất, khứ điêu văn, cử hiếu đễ, tuất
lê nguyên.
救之者, 省宮室, 去雕文, 舉孝悌 恤黎元
(Cách để cứu giúp đó là giảm bớt cung thất, bỏ đi những chạm khắc rườm rà, tuyển chọn tiến cử những người hiếu đễ, chu cấp cho dân nghèo khổ)
Tạm dịch
QUÂN THẦN
Đất
nước mà có bề tôi trung trực dám can ngăn lỗi lầm của vua thì đó là phúc của đất
nước,
Đất
nước mà không có bề tôi gian nịnh thì đất nước được xương thịnh.
Vua
nhạt thì bề tôi phải mặn để được hài hoà thì đất nước được bình trị,
Vua
ngọt mà bề tôi cũng ngọt theo thì đất nước có nhiều tai ương.
Từ
xưa, xe trước mà đổ,
Thì
xe sau lấy đó mà làm gương.
Muốn
cho vận nước được dài lâu,
Chỉ cần
vua sáng tôi hiền.
Bốn
mùa mưa thuận gió hoà,
Bách
tính yên vui an lạc.