如斯逝者
晝則封姨
夜兮玉兔
綠暗紅稀
春天過渡
Như
tư thệ giả
Trú tắc
phong di
Dạ hề
ngọc thố
Lục
ám hồng hi
Xuân thiên quá độ
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 17/6/2025
Tạm dịch
từ hai câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Lần lần,
ngày gió đêm trăng
Thưa
hồng rậm lục, đã chừng xuân qua
(câu
369 – 370)
( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
度尽朝风夜月
疏紅嫩綠, 虛度春光
Độ tận
triêu phong dạ nguyệt,
Sơ hồng
nộn lục, hư độ xuân quang.
(In tại nhà in Nhật Báo Giải phóng, 1976)
Như tư thệ giả 如斯逝者: điển
xuất từ “Luận ngữ - Tử hãn” 論語 - 子罕:
子在川上曰: “逝者如斯夫! 不舍晝夜.”
Tử tại
xuyên thượng viết: “Thệ giả như tư phù! Bất xả trú dạ.”
(Khổng Tử đứng trên bờ sông,
nói rằng: “Thời gian trôi qua như dòng nước chảy, ngày đêm không ngừng nghỉ)
Phong di 封姨: một tên gọi khác của gió,
cũng viết là 封夷, là vị thần gió trong truyền thuyết thần thoại Trung
Quốc, còn gọi là “Phong gia di” 封家姨, “Thập bát di” 十八姨, “Phong thập bát di” 封十八姨, ta
quen gọi là “Dì gió”
Vào niên hiệu Thiên Bảo 天宝đời Đường, Thôi Huyền Vi 崔玄微 vào một
đêm xuân gặp được mấy người đẹp: người áo xanh là Dương thị 杨氏, người áo trắng là Lí thị 李氏, người
áo đỏ là Đào thị 陶氏, người áo lụa đào là tiểu nữ Thạch Thố Thố 石醋醋cùng với Phong gia thập bát di 封家十八姨 (dì mười
tám nhà họ Phong). Họ Thôi 崔 bảo rót rượu để vui uống, Thập
bát di rót làm vấy bẩn áo của Thố Thố, buổi tiệc không vui giải tán. Đêm hôm
sau, các cô gái lại đến, Thố Thố nói rằng các cô gái đều ở trong vườn, phần nhiều
bị gió dữ quấy nhiễu, cầu xin họ Thôi mỗi năm vào lúc Nguyên đán 元旦treo lá cờ màu hồng ở phía đông trong vườn, thì có thể
tránh được nạn. Lúc bấy giờ Nguyên đán đã qua, nhân đó xin một buổi sáng sớm
nào đó treo cờ. Ngày hôm đó, gió từ hướng đông thổi đến, làm gãy cây, cát bụi
bay mù, vậy mà cây hoa trong vườn đều bất động. Họ Thôi bấy giờ mới ngộ ra, các
cô gái đó đều là hoa tinh, còn Thập bát di là thần gió.
Về sau trong thơ văn thường “phong di”
封姨 để chỉ gió.
http://xh.5156edu.com/page/z2550m1686j20726.html
“Phong di” ta thường gọi là “dì gió”,
“thập bát di” là “dì mười tám”.
Đêm có ả
trăng làm bạn cũ
Ngày
thì dì gió quét bên giường
(“Hồng Đức quốc âm thi tập”)
Nước
non một gánh nhẹ thay
Lứa vui
dì gió bạn vầy ải trăng
(“Sơ kính tân trang”)
Ngọc thố 玉兔: cũng gọi là “nguyệt thố” 月兔. Theo truyền thuyết thần thoại cổ đại Trung Quốc, tương
truyền trên cung trăng có con thỏ, toàn thân trắng như ngọc, cầm chày ngọc, quỳ
trên đất giã thuốc, thuốc này uống vào có thể trường sinh bất lão, hoá thành
tiên. Người đời sau dùng “ngọc thố” để chỉ cung trăng.
Lục ám hồng hi 绿暗红稀: Tức “màu xanh rậm rạp, màu hồng thưa thớt”, ý nói thời gian đã vào lúc cuối xuân đầu hạ.
Cuối xuân hoa còn lại thưa thớt, đầu hạ cành lá đã rậm rạp. Mượn từ câu trong
bài Mộ xuân Sản thuỷ tống biệt 暮春滻水送别 của Hàn Tông 韩琮 thời Đường:
Lục ám hồng hi xuất Phụng thành
Mộ vân lâu các cổ kim tình
Hành nhân mạc thính cung tiền thuỷ
Lưu tận niên quang thị thử thanh
绿暗红稀出凤城
暮云楼阁古今情
行人莫听宫前水
流尽年光是此声
(Đương lúc lá xanh đã rậm, hoa xuân đã thưa, rời khỏi
Kinh thành
Mây chiều sà xuống nơi lầu các, ẩn chứa biết bao tình cảm
u buồn xưa nay
Người đi xa chớ có nghe tiếng nước chảy ở trước cung
Bởi vì làm trôi hết năm tháng chốn nhân gian chính là
tiếng đó)
https://baike.baidu.com/item/%E6%9A%AE%E6%98%A5%E6%B5%90%E6%B0%B4%E9%80%81%E5%88%AB
Câu 370 “thưa
hồng rậm lục” trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dịch từ cụm “lục ám hồng hi”
này.