Dịch thuật: "Nương gia nhân"

 

“NƯƠNG GIA NHÂN”

          “Nương gia nhân” 娘家人 là chỉ người của nhà cô dâu. Thời trước, con gái sau khi kết hôn, thường ở tại nhà của mẹ chồng, cho nên nhà của của cha mẹ mình trở thành “nương gia” 娘家.

          Theo quy củ truyền thống cổ xưa, khuê nữ sau khi xuất giá, bình thường không thể về nhà của mình, chi khi gặp tết, hoặc nhà mình có đại sự gì mới có thể về thăm cha mẹ. Khuê nữ đã gả đi rồi lúc về lại nhà gọi là “quy ninh” 归宁, mang ý nghĩa trở về nhà thăm cha mẹ và báo rằng mình vẫn bình an.

          Khuê nữ về lại nhà mình hãy còn có một tình huống đặc biệt, đó chính là tại “bà gia” 婆家 (nhà mẹ chồng) bị áp bức chịu không nỗi nữa. Lúc bấy giờ, “nương gia nhân” sẽ xuất đầu lộ diện, thay thế khuê nữ đã xuất giá nói lời phải trái.

          “Nương gia nhân” ngoài nhạc phụ, nhạc mẫu của chàng rể ra, còn có cả “cậu lớn”, ‘cậu nhỏ”, lại có cả “dì lớn”, ‘dì nhỏ”, có thể nói là một trận địa to lớn.

          Cho nên, đối với khuê nữ đã xuất giá mà nói, “nương gia nhân” là hậu phương to lớn của mình, hoặc cũng có thể nói “là chiếc ô bảo hộ” của mình. Đối với anh chồng mà nói, “nương gia nhân” của nhà vợ, không thể để bị đắc tội, phải ra sức duy trì mối quan hệ tốt đẹp với họ, nếu không, khuê nữ tìm “nương gia nhân” báo cáo, “nương gia nhân” sẽ tìm đến tính sổ.

          Đương nhiên, “gia hoà vạn sự hưng” 家和万事兴, giữa hai vợ chồng cần phải yêu thương nhau, đối với “nương gia nhân” cần phải tôn trọng, phải hiếu kính, tuyết đối chớ có nhân vì hai người cãi nhau mà làm phiền đến “nương gia nhân”.

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 18/6/2025 

Nguồn

TRUNG QUỐC NHÂN ĐÍCH XƯNG HÔ

中国人的称呼

Biên soạn: Lưu Nhất Đạt 刘一达

Tranh vẽ: Mã Hải Phương 马海方

Bắc Kinh: Trung dịch xuất bản xã, 2022

Previous Post Next Post