凝碧樓前春已鎖
遠山近月一天空
望看四面朦朧
黄沙此處紅塵彼方
燈夕及雲朝作伴
景與情各半心中
想人月下誓同
雁魚霜信千重未來
Ngưng Bích lâu tiền xuân dĩ toả,
Viễn sơn cận nguyệt nhất thiên
không.
Vọng khan tứ diện mông lung,
Hoàng sa thử xứ, hồng trần bỉ
phương.
Đăng tịch cập vân triêu tác bạn,
Cảnh dữ tình các bán tâm trung.
Tưởng nhân nguyệt hạ thệ đồng,
Nhạn ngư sương tín thiên trùng vị lai.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 27/6/2025
Tạm dịch
từ tám câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Trước
lầu Ngưng bích khoá xuân,
Vẻ
non xa, tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề
bát ngát xa trông,
Cát
vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ
bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa
tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng
người dưới nguyệt chén đồng,
Tin
sương luống những rày trông mai chờ.
(câu
1033 – 1040)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời
Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 1035, 1036, 1042 là:
Trước sau
Ngưng Bích khoá xuân (1035)
Vết non
xa, tấm trăng gần ở chung (1036)
Tin sương luống hãy rày trông mai chờ (1042)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
从此后, “凝碧楼” 头春鎖,
妆楼上, 月明山影同清.
四望天涯无际,
黄土堆, 紅尘路, 荒凉景.
朝云灿烂, 午夜灯昏,
对景伤怀, 半为多情.
忆当年, 月下共含杯,
星霜換, 信息无凭.
Tùng
thử hậu, “Ngưng Bích lâu” đầu xuân toả,
Trang
lâu thượng, nguyệt minh sơn ảnh đồng thanh.
Tứ vọng
thiên nhai vô tế,
Hoàng
thổ đôi, hồng trần lộ, hoang lương cảnh.
Triêu
vân xán lạn, ngọ dạ đăng hôn,
Đối cảnh
thương hoài, bán vị đa tình.
Ức
đương niên, nguyệt hạ cộng hàm bôi,
Tinh
sương hoán, tín tức vô bằng.
(In tại nhà in Nhật Báo Giải phóng, 1976)
Mông lung 朦朧: lờ mờ, mơ
hồ không rõ.
Nhạn ngư 雁魚: chỉ thư tín, mượn điển “Nhạn tín ngư thư” 雁信魚書.
Nhạn tín 雁信: Theo Hán thư – Tô Vũ truyện 汉书 - 苏武传:
Thời Hán Vũ Đế, Tô Vũ đi sứ Hung nô bị giữ lại. Hung nô nhiều lần uy hiếp dụ dỗ
muốn ông đầu hàng nhưng ông không bằng lòng, bị đưa đến Bắc Hải 北海chăn
dê. Trải qua 19 năm gian khổ, Tô Vũ vẫn bất khuất. Thời Hán Chiêu Đế 汉昭帝,
nhà Hán và Hung nô nghị hoà, triều đình đòi trả Tô Vũ về, nhưng Hung nô nói dối
là Tô Vũ đã chết. Sau sứ giả triều Hán lại đến Hung nô, Thường Huệ 常惠là
tuỳ viên cùng đi sứ Hung nô với Tô Vũ đang đêm lén gặp Hán sứ trình bày rõ sự
việc, bảo Hán sứ nói với Thiền vu rằng:
Thiên
tử có bắn được con chim nhạn trong vườn Thượng Lâm 上林, nơi
chân chim có buộc một phong thư viết trên tấm lụa, cho biết cả nhóm Tô Vũ hiện
đang ở nơi đầm hoang.
Hán
sứ cả mừng, làm theo lời Thường Huệ, trách Thiền vu. Thiền vu nhìn tả hữu thất
kinh, tạ lỗi với Hán sứ, nói rằng nhóm người Tô Vũ hãy còn sống. Nhân đó Tô Vũ
được trả về.
Về sau, người ta thường dùng “nhạn
tín” 雁信, “nhạn thư” 雁书, “nhạn bạch” 雁帛 để
chỉ thư tín.
Ngư thư魚書: Trong Nhạc phủ thi tập – Tương hoà ca từ thập tam
- Ấm mã trường thành quật hành chi nhất 樂府詩集 - 相和歌辭十三 - 飲馬長城窟行之一 có chép:
Khách tùng viễn phương lai
Dị ngã song lý ngư
Hô nhi phanh lý ngư
Trung hữu xích tố thư
客從遠方來
遺我雙鯉魚
呼兒烹鯉魚
中有尺素書
(Khách từ phương xa đến
Tặng cho ta hai con cá chép
Gọi trẻ đem cá mổ
Thấy trong bụng cá có phong thư)
Về
sau từ “ngư thư” hoặc “tin cá” dùng để chỉ tin tức.
Có
thuyết cho rằng: “song lí ngư” 雙鯉魚là chỉ thư tín. Người
xưa khi gởi thư thường cất thư vào trong chiếc hộp được làm bằng hai mảnh gỗ có
hình con cá ghép lại, gọi là “song lí
ngư”.
Sương tín 霜信: tức “tin sương”, sương xuống báo tin mùa thu tới, mượn chỉ tin tức.
Thẩm
Quát 沈适đời Tống trong “Mộng Khê bút đàm –
Tạp chí nhất” 梦溪笔谈 - 杂志一có viết:
Bắc
phương hữu bạch nhạn, tự nhạn nhi tiểu, sắc bạch, thu thâm tắc lai. Bạch nhạn
chí tắc sương giáng, Hà Bắc nhân vị chi ‘sương tín’.
北方有白雁, 似雁而小, 色白, 秋深則來. 白雁至則霜降, 河北人謂之 ‘霜信’.
(Phương
bắc có loài chim, giống chim nhạn nhưng nhỏ hơn, sắc trắng, giữa mùa thu bay đến.
Lúc bạch nhạn bay đến là sương xuống, người Hà Bắc gọi đó là ‘sương tín’.)
Trong
thơ văn cổ, “nhạn ngư sương tín” 雁魚霜信được dùng để chỉ
tin tức, thư tín.