踏莎行
壯志凌雲
英雄氣概
雙肩重任江山大
之憂天下以爲先
爲民爲國心無改
大誥平吳
古今不敗
狂澜洗惡流東海
南山罄竹罪難窮
文章奎藻光千載
ĐẠP SA HÀNH
Tráng
chí lăng vân
Anh
hùng khí khái
Song
kiên trọng nhậm giang sơn đại
Chi ưu
thiên hạ dĩ vi tiên
Vị dân vị quốc tâm vô cải
Đại
cáo bình Ngô
Cổ kim
bất bại
Cuồng
lan tẩy ác lưu đông hải
Nam
sơn khánh trúc tội nan cùng
Văn chương khuê tảo quang thiên tải.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 15/6/2025
Song
kiên 雙肩: hai
vai.
Song
kiên trọng nhậm 雙肩重任: hai
vai gánh nặng.
Chi
ưu thiên hạ dĩ vi tiên 之憂天下以爲先: lấy
việc lo cho thiên hạ làm đầu. Điển
xuất từ câu của Phạm Trọng Yêm 范仲淹 đời Tống trong bài Nhạc
Dương Lâu kí 岳陽樓記:
Tiên thiên hạ chi
ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc
先天下之憂而憂,
後天下之樂而樂
(Lo trước cái lo của thiên hạ,
vui sau cái vui của thiên hạ)
Đại
cáo bình Ngô 平吳: tức “Bình
Ngô đại cáo” 平吳大誥tác phẩm bằng chữ Hán do Nguyễn
Trãi soạn vào năm 1428, thay Bình Định Vương Lê Lợi tuyên cáo việc giành chiến
thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, khẳng định quyền độc lập và tự chủ
của Đại Việt ta. Tác phẩm không những mang ý nghĩa chính trị và lịch sử mà còn
có giá trị về văn học, được ca ngợi là “thiên cổ hùng văn”.
Cuồng
lan tẩy ác lưu đông hải 狂澜洗惡流東海/
Nam sơn khánh trúc tội nan cùng 南山罄竹罪難窮: sóng
dữ rửa cái ác cho chảy hết ra biển đông / chặt sạch trúc núi nam cũng khó ghi hết
tội.
Trong “Bình Ngô đại cáo” 平吳大誥Nguyễn Trãi 阮廌 viết rằng:
決東海之水不足以濯其污
罄南山之竹不足以書其惡
Quyết
đông hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kì ô
Khánh
Nam sơn chi trúc bất túc dĩ thư kì ác
(Tát cạn
hết nước biển đông cũng không đủ để rửa sách vết nhơ
Chặt hết
trúc núi Nam cũng không đủ để ghi cái ác)
Hai câu này của Nguyễn Trãi mượn từ câu ở Lí Mật truyện 李密傳.
Trong Cựu Đường thư – Lí Mật truyện 舊唐書 - 李密傳 có câu:
Khánh Nam Sơn chi trúc, thư tội vị cùng; quyết
Đông Hải chi ba, lưu ác nan tận
罄南山之竹, 書罪未窮; 决東海之波, 流惡難盡
(Chặt hết
trúc núi Nam, chép cũng chưa hết tội; tát cạn nước biển đông, rửa cũng không sạch
ác)
Văn chương khuê tảo quang thiên
tải 文章奎藻光千載: văn chương như “khuê tảo” sáng
mãi cả ngàn năm. Điển xuất từ câu:
Ức
Trai tâm thượng quang khuê tảo.
抑齋心上光奎藻
(Lòng Ức
Trai toả sáng văn chương)
trong
bài “Quân minh thần lương” 君明臣良 (vua
sáng tôi hiền) của Lê Thánh Tông.
Khuê 奎: sao khuê, một ngôi sao trong nhị
thập bát tú. Sao khuê chủ về văn hoá, nên văn vận, văn chương hay dùng chữ
“khuê”.
Tảo 藻: rong, một loại thực vật mọc dưới
nước có văn vẻ đẹp, người xưa thường thêu hình “tảo” trên mũ áo trang sức cho đẹp.
Khuê tảo 奎藻: chỉ văn chương hoa mĩ, tươi đẹp,
cũng được dùng để chỉ thi văn thư hoạ của đế vương.
Về câu “Ức Trai tâm thượng quang
khuê tảo” ngoài chỉ văn chương của Nguyễn Trãi ra, có lẽ Lê Thánh Tông cũng
muốn nói đến tài năng văn chương của Nguyến Trãi khi Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi
soạn “Quân trung từ mệnh tập” trong thời gian kháng chiến.
Nguyễn
Trãi 阮廌 (1380
– 1442): hiệu Ức Trai 抑齋, quê ở
Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Nguyến
Trãi là nhà chính trị, nhà văn, nhà văn hoá lớn của Việt Nam. Ông tham gia tích
cực cuộc khởi Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của quân Minh.
Nguyễn Trãi được xem là một trong nhưng khai quốc công thần của nhà Hậu Lê
trong lịch sử Việt Nam.