椿萱父母健康
弟妹而今方長
故人正是金郎
的確現前此事
却疑夢想荒唐
Nhất khán toàn gia tề tựu
Xuân huyên phụ mẫu kiện khang
Đệ muội nhi kim phương trưởng
Cố nhân chính thị Kim lang
Đích xác hiện tiền thử sự
Khước nghi mộng tưởng hoang đường
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 31/5/2025
Tạm dịch từ sáu câu trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du.
Trông xem đủ mặt một nhà:
Xuân già còn khoẻ, huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hoà hai,
Nọ chàng Kim đó, là người ngày
xưa.
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm
bao!
(câu 3009 – 3014)
( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào
Duy Anh)
Theo
“Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị,
câu 3013 là:
Nhìn xem đủ mặt một nhà (3013)
Bản dịch sang Trung văn của Hoàng
Dật Cầu 黄軼球
她看見了全家大小,
父母依然康健.
弟妹长大成人,
还有金生, 也在眼前出現!
試問今日何年?
还怕是, 梦里团圓.
Tha khán kiến liễu toàn gia đại
tiểu,
Phụ mẫu y nhiên khang kiện.
Đệ muội trưởng đại thành nhân,
Hoàn hữu Kim sinh, dã tại nhãn tiền
xuất hiện!
Thí vấn kim nhật hà niên?
Hoàn phạ thị, mộng lí đoàn viên.
(In tại nhà in Nhật Báo Giải phóng, 1976)
Xuân huyên 椿萱: chỉ
cha mẹ.
Xuân 椿: cây
xuân. Trong Trang Tử - Tiêu dao du 莊子 - 逍遙遊 có câu:
Thượng cổ hữu đại xuân giả, dĩ
bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu.
上古有大春者, 以八千歲為春, 八千歲為秋秋.
(Thời thượng cổ có cây đại xuân, lấy tám ngàn năm làm mùa
xuân, tám ngàn năm làm mùa thu.)
Nhân đó người xưa lấy cây xuân để ví cho phụ thân, mong phụ
thân cũng được trường sinh bất lão. Về sau, khi chúc thọ bậc trưởng bối nam giới,
người ta thường tôn xưng đối phương là “xuân thọ” 椿壽.
Huyên 萱: cỏ huyên, còn gọi là “Tử huyên” 紫萱, “Lộc tiễn” 鹿箭, “Kim châm hoa” 金針花, “Nghi nam thảo” 宜男草. “Vong ưu thảo” 忘憂草, “Liệu sầu” 療愁.
Thời cổ ở Trung Quốc sớm đã có loài hoa đại biểu cho mẹ (mẫu thân hoa 母親花), đó là huyên thảo萱草 (hoa hiên). Huyên
thảo tượng trưng cho tính ôn nhu, hàm súc, hiền lành, chất phác, kiên nhẫn và
tinh thần dâng hiến hi sinh của nữ giới.
“Huyên thảo” ở Trung Quốc
lại là loài hoa đại biểu cho mẹ.
Người xưa cho rằng lấy chồi non của loại cỏ này làm rau, ăn vào có thể
khiến người ta như bị say, làm cho quên đi ưu phiền, cho nên cũng gọi là “vong
ưu thảo” 忘憂草, “vong ưu vật” 忘憂物.
Trong Thi kinh – Vệ phong – Bá hề 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:
Yên đắc huyên thảo
Ngôn thụ chi bối
焉得谖草
言树之背
(Làm sao có được
cây cỏ huyên
Trồng nó ở nhà phía
bắc)
Trong Mao truyện 毛傳ghi rằng:
Huyên thảo linh nhân vong ưu; bối, bắc đường dã.
萱草令人忘憂; 背, 北堂也.
(Huyên thảo làm cho
người ta quên đi ưu phiền; bối là nhà phía bắc.)
Bắc đường 北堂 chỉ phía sau căn
phòng phía đông, là nơi phụ nữ giặt rửa, cho nên mượn “bắc đường” để chỉ mẹ. Về
sau dùng “huyên thảo” để chỉ nơi ở của mẹ, cũng mượn để ví mẹ. Người con khi đi
xa sẽ trồng cỏ huyên ở bắc đường, hi vọng mẹ sẽ giảm được nỗi nhớ con mà quên
đi ưu phiền. Nhân đó “bắc đường thụ huyên” 北堂樹萱 (trồng cỏ huyên ở bắc đường) có thể làm cho người ta quên đi sầu muộn, dẫn
đến ý nghĩa tình mẫu tử. … (trích)
http://www.renminbao.info/229/11805.htm
Nhi kim 而今: đến nay, hiện
nay.