CHÙM THƠ HAIKU VIỆT
(BÀI CÚ 俳句)
(5-7-5)
Bài 30
Mặt đất
ngờ sương hiện
Ta
đem bóng nguyệt pha vào chén
Hương quế vẫn thơm nồng
Tạm dịch sang chữ
Hán
滿地疑霜有
余將月影泡杯酒
金粟老香濃
Mãn địa
nghi sương hữu
Dư
tương nguyệt ảnh phao bôi tửu
Kim túc lão hương nùng
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 25/5/2025
Mãn địa nghi sương hữu 滿地疑霜有: mượn ý từ hai câu trong bài “Tĩnh
dạ tư” 靜夜思của Lí Bạch 李白:
牀前明月光
疑是地上霜
Sàng
tiền minh nguyệt quang
Nghi
thị địa thượng sương
(Trước
giường ánh trăng sáng tỏ
Cứ ngỡ
là trên mặt đất phủ đầy sương)
Kim túc金粟: biệt xưng của hoa quế. Hoa quế rộ
vào mùa thu, lúc nở nhìn giống như hàng ngàn hạt thóc lấm tấm điểm sắc vàng,
cho nên có tên gọi như thế.
Truyền thuyết cổ đại cho rằng trên mặt
trăng có cây quế. Trong Dậu dương tạp trở
酉陽雜俎có ghi:
Nguyệt trung hữu quế, cao ngũ bách trượng, hạ
hữu nhất nhân thướng chước chi, thụ sang tuỳ hợp.
月中有桂,
高五百丈,
下有一人常斫之, 樹創隨合.
(Trong
mặt trăng có cây quế, cao năm trăm trượng, bên dưới cây có một người thường đốn
nó, vết thương của cây theo nhát búa rút ra liền lành lại)
Trong thơ văn Việt Nam thường cũng dùng “cung quế” để
chỉ mặt trăng.
Cung quế cao xanh đượm khói
Dòng Ngân tĩnh biếc in tàu
(“Hồng Đức quốc âm thi tập”)
(Theo “Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam” quyển 1 của
Nguyễn Thạch Giang)
Kim túc lão hương nùng 金粟老香濃: ý nói rượu quế cũ đến nay vẫn còn thơm.