Dịch thuật: "Lão đệ" 老棣 không phải là hoa

 

“LÃO ĐỆ” 老棣 KHÔNG PHẢI LÀ HOA

          Một số thư hoạ gia khi tặng bức thư hoạ cho người khác thường đề bên trên là: “Mỗ mỗ mỗ đệ nhã thưởng” 某某某棣雅赏 hoặc “Mỗ mỗ đệ thưởng thức” 某某棣赏识. Nhiều người không rõ chữ (đệ) này có nghĩa gì, thậm chí có người cho rằng đó là tên người.

          Kì thực, chữ (đệ) này cùng nghĩa với chữ (đệ) nghĩa là em, nó đại biểu cho 弟弟 (đệ đệ).

          Trong văn hoá Trung Quốc, mọi người giao tiếp qua lại với nhau thường cho khiêm cung là mĩ đức, lúc bình thường xưng hô người khác, dù đối phương có nhỏ tuổi hơn mình cũng xưng họ là “nhân huynh” 仁兄. Người ta cho rằng nếu trực tiếp gọi đối phương là 弟弟 (đệ đệ), thì có vẻ bản thân mình tự đại thái quá, không được văn nhã, cho nên dùng (đệ) này thay cho chữ (đệ) (em trai).

          Nghĩa gốc của chữ (đệ) là một loại cây, hoa màu vàng, quả màu đen không thể ăn. Quách Mạt Nhược 郭沫若khi viết bộ thoại kịch “Đường đệ chi hoa” 棠棣之花, có miêu tả câu chuyện vào thời Chiến Quốc, nghĩa sĩ Nhiếp Chính 聂政 thích sát Hàn tướng Hiệp Luỹ 侠累.

          “Đường đệ hoa” 棠棣花 là loài hoa có màu trắng hoặc màu hồng phấn, nó với loại (đệ) là hai loại hoa khác nhau. Từ xưa, “đường đệ” 棠棣 đã được mượn để chỉ thay cho anh em.

          Trong “Thi kinh – Tiểu nhã” 诗經 - 小雅 có bài thơ “Đường đệ” 棠棣 (1) ca tụng tình anh em, trong đó có câu:

Đường đệ chi hoa

…………..

Phàm kim chi nhân

Mạc như huynh đệ

棠棣之华

…………….

凡今之人

莫如兄弟

(Hoa của cây đường đệ

……….

Phàm là người thời nay

Thì không gì bằng anh em)

          Trong “Tấn thư – Sách Tĩnh truyện” 晋书 - 索靖传cũng có câu:

Chi thảo bồ đào hoàn tương kế

Đường đệ dung dung tái kì hoa

芝草蒲陶还相继

棠棣融融载其华

(Chi thảo bò lan, dây bồ đào quấn quýt, liên miên không đứt.

Có cây đường đệ, hoa và nhuỵ bên nhau đẹp rực rỡ)

Vì thế văn nhân hiện nay đem chữ (đệ) viết thành (đệ) là có nguyên nhân của nó.

Do bởi 棠棣 (đường đệ) chỉ thay cho anh em, nên đã phái sinh cách xưng hô tương quan, ví dụ như 仁棣 (nhân đệ), là cách tôn xưng bạn bè nhỏ tuổi hơn mình. Thầy giáo cũng có thể gọi học trò của mình là 仁棣 (nhân đệ). Ngoài ra, còn có cách xưng hô như 贤棣 (hiền đệ), 棣友 (đệ hữu), (đệ ngạc) v.v…

Chú của người dịch

1-Theo “Kinh thi” bản dịch của Tạ Quang Phát, và “Thi kinh” (Bạch thoại tân giải) của Đài Loan Trí Dương xuất bản xã ấn hành đều viết là 常棣 (Thường đệ).

          Chữ (thường) ở đây thông với chữ (đường). 

                                                                       Huỳnh Chương Hưng

                                                                       Quy Nhơn 22/5/2025

Nguồn

TRUNG QUỐC NHÂN ĐÍCH XƯNG HÔ

中国人的称呼

Biên soạn: Lưu Nhất Đạt 刘一达

Tranh vẽ: Mã Hải Phương 马海方

Bắc Kinh: Trung dịch xuất bản xã, 2022

Previous Post Next Post