天必報
世事升沉
人情冷暖
高低莫算
深淺難分
拋棄義仁
結交殘賊
不從凖則
奪理强詞
以實翻虛
弱肉强食
老天有目
惡者豈藏
信口雌黄
早遲必報
Thế sự thăng trầm
Nhân tình lãnh noãn
Cao đê mạc toán
Thâm thiển nan phân
Phao khí nghĩa nhân
Kết giao tàn tặc
Bất tùng chuẩn tắc
Đoạt lí cưỡng từ
Dĩ thực phiên hư
Nhược nhục cường thực
Lão thiên hữu mục
Ác giả khởi tàng
Tín khẩu thư hoàng
Tảo trì tất báo
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 07/3/2025
Tàn tặc
殘賊: Điển xuất từ “Mạnh Tử - Lương Huệ
Vương hạ” 孟子 - 梁惠王下 :
賊仁者謂之賊; 賊義者謂之殘. 殘賊之人.
Tặc nhân giả vị chi ‘tặc’; tặc nghĩa giả vị chi ‘tàn.
(Kẻ nào làm tổn thương đến điều nhân, thì gọi kẻ đó là
‘tàn’. Kẻ nào làm tổn hại đến điều nghĩa, thì gọi kẻ đó là ‘tặc’.)
Đoạt lí
cưỡng từ 奪理强詞: cũng nói “cưỡng từ đoạt lí” 强詞奪理, hình dung sự giảo biện lật lọng theo ý mình muốn, bất chấp
đạo lí.
Nhược
nhục cường thực 弱肉强食: loại động vật nhỏ bé yếu đuối
trở thành thức ăn của loại động vật lớn mạnh hung dữ.
Điển xuất từ “Tống phù đố văn Sướng
Sư tự”送浮屠文暢師序 của Hàn Dũ 韓愈:
夫鳥俛而啄, 仰而四顧; 夫獸深居而簡出, 懼物之爲己害也, 猶且不脫焉. 弱之肉, 强之食.
Phù điểu phủ nhi trác, ngưỡng nhi tứ
cố; phù thú thâm cư nhi giản xuất, cụ vật chi vi kỉ hại dã, do thả bất thoát
yên. Nhược chi nhục, cường chi thực.
(Loài chim lúc cúi đầu mổ thức ăn, lúc
ngẩng đầu nhìn bốn phía; loài thú ẩn mình nơi núi sâu, ít khi xuất hiện, đó đều
là vì chúng sợ các loại khác hại mình nên lúc nào cũng cảnh giác, nhưng cũng
không tránh được thịt của con yếu làm mồi cho con mạnh.)
Thành ngữ “nhược nhục cường thực” dùng
để ví kẻ mạnh bức hiếp người yếu, cá lớn nuốt cá bé.
Tín khẩu thư hoàng 信口雌黄: Không chịu nghĩ đến chân tướng sự
thực, buộc miệng tuỳ ý giảng bậy hoặc tuỳ ý phê bình.
Thư
hoàng 雌黄là loại khoáng vật sắc vàng. Thời cổ người ta thường viết lên giấy màu
vàng, mỗi khi viết sai viết, muốn xóa bỏ chữ đó, người ta đã dùng thư hoàng bôi
lên, rồi viết lại.
Điển xuất
từ “Tấn thư – Vương Diễn truyện” 晉書 - 王衍傳.
Thời Nguỵ Tấn
Nam Bắc triều, do bởi hoàn cảnh động loạn không yên, tư tưởng thanh tĩnh vô vi
của Lão Trang rất thịnh hành. Nhiều người thích dùng tư tưởng Lão Trang làm nội
dung bàn luận, Vương Diễn là một người trong số đó. Mỗi khi luận bàn triết lí
huyền diệu của Lão Trang, Vương Diễn nói thao thao bất tuyệt, cho dù có sai,
hoặc có chỗ không thông, ông tuỳ ý sửa đổi, giống như trong miệng có sẵn thư
hoàng, mọi người nói ông là “Khẩu trung thư hoàng”.
Lí
Thiện 李善 khi chú “Tấn Dương Thu” 晉陽秋của Tôn Thịnh 孫盛đời Tấn nói rằng:
王衍, 字夷甫, 能言, 於意有不安者, 輒更易之, 時號口中雌黄.
Vương
Diễn, tự Di Phủ, năng ngôn, ư ý hữu bất an giả, triếp canh dịch chi, thời hiệu
khẩu trung thư hoàng.
(Vương Diễn
tự là Di Phủ, giỏi ăn nói, mỗi khi ý nghĩ có chỗ không ổn, ông liền sửa đổi,
đương thời đặt cho ông hiệu là “khẩu trung thư hoàng”.)
Từ câu chuyện
đó, Trung Quốc có thành ngữ “Tín khẩu thư hoàng”.
Tảo trì 早遲: sớm muộn.