Dịch thuật: Tự ngạo dữ thân phụ (Tiểu song u kí)

 

自傲与亲附

苍蝇附骥 (1), 捷则捷矣 (2), 难辞处后之羞 (3). 茑萝依松 (4), 高则高矣, 未免仰扳之耻 (5). 所以君子宁以风霜自挟 (6), 毋为鱼鸟亲人 (7).

                    (陈继儒: 小窗幽记)

 TỰ NGẠO DỮ THÂN PHỤ

Thương dăng phụ kí (1), tiệp tắc tiệp hĩ (2), nan từ xử hậu chi tu (3). Điểu la y tùng (4), cao tắc cao hĩ, vị miễn ngưỡng ban chi sỉ (5). Sở dĩ quân tử ninh dĩ phong sương tự hiệp (6), vô vi ngư điểu thân nhân (7).

                                                             (Trần Kế Nho: Tiểu song u kí)

Chú thích

1-Thương dăng phụ kí 苍蝇附骥: xuất từ “Dữ Ngỗi Hiêu thư” 与隗囂书của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú 汉光武帝刘秀:

          Thương dăng chi phi, bất quá sổ bộ; nhược phụ kí vĩ, khả chí thiên lí.

          苍蝇之飞, 不过数步; 若附骥尾, 可至千里.

          (Ruồi nhặng khi bay, chẳng qua chỉ được vài bước, nhưng nếu bám vào đuôi ngựa, thì có thể đến ngàn dặm.)

          Phụ : dựa vào, nương vào. : thiên lí mã.

2-Tiệp : nhanh.

3-Từ : không tiếp nhận.

4-Điểu la y tùng 茑萝依松: xuất từ “Thi kinh” 诗經:

Điểu dữ nữ la

Thi vu tùng bá

蔦與女蘿

施于松柏

(Dây điểu và dây nữ la

Leo bám vào cây tùng cây bá)

          Điểu la 茑萝: một loại thực vật, không có cành nhánh, thường bám vào cây cao mà leo lên.

5-Ngưỡng ban 仰扳: bám vào để leo lên.

6-Hiệp : cầm, giữ.

7-Ngư điểu 鱼鸟: chỉ cá trong chậu, chim trong lồng. 

Dịch nghĩa

KIÊU NGẠO VÀ NỊNH BỢ

Ruồi nhặng bám vào đuôi thiên lí mã, nhanh thì có nhanh đấy, nhưng không tránh khỏi nỗi xấu hổ là bám theo đít ngựa. Dây điểu la quấn lấy cây tùng, cao thì có cao đấy, nhưng không tránh khỏi nỗi sỉ nhục là dựa dẫm cây cao. Cho nên bậc quân tử thà trong gió sương hiển lộ ngạo cốt của mình, chứ không giống như cá trong chậu, chim trong lồng trơ mặt ra mà dựa vào người.

Phân tích và thưởng thức

          Trong “Thần tiên truyện” 神仙传 của Cát Hồng 葛洪đời Tấn có câu chuyện “Nhất nhân đắc đạo, kê khuyển thăng thiên” 一人得道, 鸡犬升天 (Một người đắc đạo, gà chó cũng được lên trời). Lưu An 刘安khi đắc đạo thăng thiên, đã đem số tiên dược còn lại rải ra trong sân, gà và chó của Lưu An sau khi ăn, cũng đều được thăng thiên. Câu chuyện này châm biếm một người đắc thế, ngay cả bà con bạn bè của anh ta cũng đều được phất lên. Kì thực, mối quan hệ đen xen chằng chịt dựa dẫm của loại nhân thân như thế ở Trung Quốc thời cổ, ta thấy nhiều chẳng có gì mới. Giống như ruồi nhặng bám vào đuôi thiên lí mã, dây điểu la bám vào cây tùng. Quân tử lập thân xử thế, không phải ở chỗ địa vị cao hay thấp, không phải ở chỗ vinh hoa phú quý, mà là có tự lập hay không. Cho dù bản thân có ở vào cảnh gió sương, cũng không thể là loại chim trong lồng cá trong chậu, nấp dưới tay người, vì đó mà hoàn toàn mất đi chân tính tình của cá nhân, chỉ biết bợ đỡ nịnh hót kẻ có quyền thế, mặt lộ cái cười giả tạo để làm vui lòng người khác. Khỏi phải nói đến chân tính tình, ngay cả điểm nhân cách cơ bản của cá nhân cũng hoá thành nô tính chạy theo mùi hôi thối và sự đê tiện.

Trần Kế Nho 陈继儒 (1558 – 1639): văn học gia, thư hoạ gia đời Minh, tự Trọng Thuần 仲醇, hiệu Mi Công 眉公, người Hoa Đình 华亭 Tùng Giang 松江 (nay là Tùng Giang Thượng Hải).

Trần Kế Nho lúc nhỏ đã thông minh, ông học rộng biết nhiều, giỏi cả thơ lẫn văn, về thư pháp theo Tô Thức 苏轼, Mễ Phế 米芾 nổi tiếng một thời. Khoảng những năm hai mươi mấy tuổi, ông tuyệt ý với khoa cử, ẩn cư tại Tiểu Côn sơn 小昆山, sau cất nhà tại Đông Xà 东佘 suốt ngày đóng cửa viết sách. Triều đình nhiều lần cho mời nhưng ông đều lấy cớ bệnh tật từ chối.

Trần Kế Nho cả một đời đọc rất nhiều, trứ thuật cũng đồ sộ phong phú. Tác phẩm của ông có Trần Mi Công toàn tập 陈眉公全集  truyền đời.

Nguồn http://www.360doc.com/content

                                                                       Huỳnh Chương Hưng

                                                                       Quy Nhơn 13/3/2025

Nguyên tác

TỰ NGẠO DỮ THÂN PHỤ

自傲与亲附

Trong quyển

TIỂU SONG U KÍ

小窗幽记

Tác giả: Trần Kế Nho 陈继儒

Chú dịch: Lôi Phương 雷芳

Sùng Văn thư cục, 2007.

Previous Post Next Post