蝶戀花
塞外寒風今已歇
鞭馬加飛
花草春佳節
香聚馬蹄留戀蝶
凱旋曲調關山越
幾度烟塵胡虜滅
壯志男兒
洗盡仇心血
海晏河清歡不絕
放牛歸馬長年月
Tái
ngoại hàn phong kim dĩ hiết
Tiên
mã gia phi
Hoa
thảo xuân giai tiết
Hương
tụ mã đề lưu luyến điệp
Khải tuyền khúc điệu quan sơn việt
Kỉ
độ yên trần hồ lỗ diệt
Tráng
chí nam nhi
Tẩy
tận cừu, tâm huyết
Hải
yến hà thanh hoan bất tuyệt
Phóng ngưu quy mã trường niên nguyệt
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/01/2025
Hiết 歇: ngừng, nghỉ.
Hương tụ mã đề lưu luyến điệp 香聚馬蹄留戀蝶: điển xuất từ câu:
踏花歸去馬蹄香
Đạp hoa quy khứ mã đề hương
(Ngựa giẫm lên hoa lúc quay trở
về, vó đầy cả mùi thơm)
trong “Cổ kim từ thoại” 古今词话của Dương Thực 杨湜, học giả thời Nam Tống.
Theo
truyền thuyết, Tống Huy Tông Triệu Cát 宋徽宗赵佶triều Bắc Tống rất đam mê hội hoạ.
Bản thân ông cũng là một hoạ sĩ có tài, chuyên vẽ tranh hoa điểu, cho nên khi
triều đình tổ chức khảo thí hoạ gia, ông thường lấy câu thơ để ra đề. Có một lần
triều đình tổ chức thi, chiếu ban xuống, hoạ gia các nơi tấp nập đến kinh
thành. Ngày thi, quan chủ khảo ra đề: “Đạp hoa quy khứ mã đề hương” (Ngựa giẫm
lên hoa lúc quay trở về, vó đầy cả mùi thơm). Hoạ gia có người vẽ ngựa đi trên
đường đầy cánh hoa, có người vẽ ngựa giẫm lên cánh hoa mà đi, có người nhắm vào
chữ “mã” vẽ chủ thể là một thiếu niên vung roi giục ngựa phi nhanh, lại có người
nhắm vào chữ “đề” (vó ngựa) vẽ ngựa với bộ vó nổi bật. Chỉ có một người đã biểu
hiện được chữ “hương”, vẽ một quan nhân đi chơi trở về trong lúc chiều tà, ngựa
phi nhanh, vó cất cao, đàn bướm đuổi bay theo vó ngựa. Khi chấm, quan chủ khảo
xem từng bức, chưa có bức nào vừa ý, khi đến bức đó, sắc mặt quan chủ khảo lộ vẻ
hài lòng. Và bức đó được chọn.
https://baike.baidu.hk/item/%E8%B8%8F%E8%8A%B1%E6%AD%B8%E5%8E%BB%E9%A6%AC%E8%B9%84%E9%A6%99/4227501
Khải tuyền 凱旋: khải hoàn, chiến thắng trở về.
Hải yến hà thanh 海晏河清: cũng nói “Hà thanh hải yến” 河清海晏. “Hà thanh” 河清: nước Hoàng hà lại trong; “hải
yến” 海晏:
biển lớn không có sóng. Thành ngữ này được dùng để ví thiên hạ thái bình.
Phóng
ngưu quy mã 放牛歸馬: Điển xuất từ Thượng thư – Vũ thành 尚書 - 武成.
Nãi yển vũ tu văn, quy mã vu Hoa Sơn chi dương, phóng ngưu
vu Đào Lâm chi dã, thị thiên hạ phất phục.
乃偃武修文, 歸馬于華山之陽,
放牛于桃林之野,
示天下弗服
(Bèn dừng
việc võ, chăm lo việc văn, thả ngựa dùng trong chiến sự trở về phía nam Hoa
Sơn, thả trâu dùng trong chiến tranh trở về cánh đồng Đào Lâm, để biểu thị
thiên hạ thái bình, không dùng đến nữa.)
Cuối triều
Thương, Trụ Vương 紂王hoang
dâm vô độ, bách tính lầm than, tiếng kêu khóc đầy đường. Chu Vũ Vương thống
lính đại quân bao vây kinh đô triều Thương. Trụ Vương lên Lộc đài 鹿台 phóng hoả tự thiêu. Chu Vũ
Vương 周武王
kiến lập triều Chu, đóng đô tại Hạo kinh 鎬京. Chiến tranh kết thúc, Chu Vũ
Vương hạ lệnh dừng việc quân, đề xướng văn hoá giáo dục, thả ngựa dùng trong
chiến sự trở về phía nam Hoa Sơn 華山, thả trâu dùng trong chiến tranh trở về cánh đồng Đào Lâm 桃林, để biểu thị thiên hạ thái
bình, không dùng đến nữa.
Thành ngữ “Phóng ngưu quy mã” 放牛歸馬cũng nói là “Quy mã phóng ngưu” 歸馬放牛 biểu thị chiến tranh đã kết thúc, thiên hạ thái bình.
Tạm dịch
Gió lạnh nơi biên thuỳ nay đã dứt.
Vung roi giục ngựa phi nhanh.
Hoa cỏ đang vào xuân tiết đẹp,
Mùi hương tụ nơi vó ngựa, đàn
bướm bay theo.
Khúc ca khải hoàn vượt muôn trùng quan sơn trở về.
Mấy độ khói bụi mù bay, kẻ thù nay
bị diệt,
Nam nhi tráng chí,
Một lòng đuổi sạch quân thù.
Giờ thiên hạ được thái bình, niềm
vui bất tuyệt,
Thả trâu thả ngựa trở về, tháng
ngày bình yên mãi trường tồn.