Sáng tác: Triêu hi mộ vọng hà thời liễu (HCH)

 

朝希暮望何時了

十五年來情多少

而今破鏡得重圓

戲弄安排自老天

人與舊緣幸俱在

月老作證盟山海

標梅其實七又三

赤繩快結何用待

Triêu hi mộ vọng hà thời liễu

Thập ngũ niên lai tình đa thiểu

Nhi kim phá kính đắc trùng viên

Hí lộng, an bài tự lão thiên

Nhân dữ cựu duyên hạnh câu tại

Nguyệt lão tác chứng, minh sơn hải

Biễu mai kì thực thất hựu tam

Xích thằng khoái kết hà dụng đãi

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 15/11/2024

Tạm dịch từ tám câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Những là rày ước mai ao

Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình

Bây giờ, gương vỡ lại lành

Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi

Còn duyên may lại còn người

Còn vừng trăng bạc, còn lời nguyền xưa

Quả mai ba bảy đương vừa

Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì

(câu 3069 – 3076)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 3075, 3078 và 3079 là:

Khuông thiêng lừa lọc đã đành có nơi (3076)

Còn vầng trăng , còn lời nguyền xưa (3078)

Quả mai ba bảy cũng vừa (3079)

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

我們朝朝想念

十五年来, 愁緒万千

今朝破鏡重圓

天从人愿

情长在, 人依旧

月长圓, 旧盟可踐

標梅时正好

及时成就良緣

Ngã môn triêu triêu tưởng niệm

Thập ngũ niên lai, sầu tự vạn thiên

Kim triêu phá kính trùng viên

Thiên tùng nhân nguyện

Tình trường tại, nhân y cựu

Nguyệt trường viên, cựu minh khả tiễn

“Biễu mai” thời chính hảo

Cập thời thành tựu lương duyên

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)

Theo “Thi kinh – Bạch thoại tân giải” 詩經 - 白話新解do Đài Loan: Trí dương xuất bản xã ấn hành, chữ có chú rằng:

âm biễu

標音殍

(Chữ “” âm đọc là “biễu”)

Phá kính trùng viên 破鏡重圓: Gương vỡ lại lành,  tức vợ chồng li tán sau đó được đoàn tụ vui vầy trở lại.

          Trong Bản sự thi – Tình cảm 本事诗 - 情感 của Mạnh Khể 孟棨 đời Đường có thuật một câu chuyện:

          Triều Trần thời Nam Triều, Thái tử xá nhân Từ Đức Ngôn 徐德言 cùng vợ là Lạc Xương công chúa 乐昌公主 sợ sau khi nước mất hai người sẽ không gặp được nhau, nhân đó mới đập tấm kính đồng ra làm hai, mỗi người giữ một nửa, hẹn rằng vào rằm tháng Giêng đem nửa mảnh kính ra chợ bán, hi vọng sẽ gặp lại. Về sau nhà Trần mất, công chúa lọt vào nhà Việt Quốc Công Dương Tố 越国公杨素. Từ Đức Ngôn theo lời hẹn đến kinh thành, thấy có người bán nửa mảnh kính, bèn lấy nửa mảnh của mình ráp vào, quả nhiên tròn lại. Từ Đức Ngôn viết bài thơ lên nửa mảnh kính rằng:

Kính dữ nhân câu khứ

Kính quy nhân bất quy

Vô phục Thường Nga ảnh

Không lưu minh nguyệt huy

镜与人俱去

镜归人不归

无复嫦娥影

空留明月辉

(Kính với người cùng đi mất

Nay kính trở về mà không thấy người trở về

Không tìm thấy được hình bóng Thường Nga nữa

Trên không chỉ lưu lại vầng trăng sáng)

          Công chúa đọc được bài thơ, khóc than không ăn uống. Dương Tố biết chuyện, lập tức cho triệu Từ Đức Ngôn đến, trả công chúa lại cho Từ Đức Ngôn, cả hai cùng về Giang Nam 江南sống bên nhau cho đến già.

          Về sau người ta dùng “Phá kính trùng viên” để ví vợ chồng li tán hoặc chia tay nhau sau đó được đoàn tụ vui vầy trở lại.

https://baike.baidu.com/item/%E7%A0%B4%E9%95%9C%E9%87%8D%E5%9C%86/68305

Minh sơn hải 盟山: tức “thệ hải minh sơn” 誓海盟山thề non hẹn biển, cũng có thể nói “hải thệ sơn minh” 海誓山盟, ví nam nữ yêu nhau, cùng thề tình yêu vĩnh hằng như núi cao như biển lớn.

          Điển xuất từ bài từ Cát tịch 吉席 theo điệu Mãn đình phương 满庭芳  của Hồ Hạo Nhiên 胡浩然 đời Tống:

Hoan ngu đương thử tế

Hải thệ sơn minh

Địa cửu thiên trường

欢娱当此际

海誓山盟

地久天长

(Vui vầy lúc này

Hẹn biển thề non

Cùng với trời đất dài lâu)

(“Thành ngữ đại từ điển” 成语大词典, Bắc Kinh: Thương vụ ấn thư quán, Quốc Tế hữu hạn công ti, 2004)

          Và bài Thượng da上邪dân ca Nhạc phủ đời Hán, viết rằng:

Thượng da!

Ngã dục dữ quân tương tri

Trường mệnh vô tuyệt suy

Sơn vô lăng

Giang thuỷ vi kiệt

Đông lôi chấn chấn

Hạ vũ tuyết

Thiên địa hợp

Nãi cảm dữ quân tuyệt

上邪

我欲与君相知

长命无绝衰

山无陵

江水为竭

冬雷震震

夏雨雪

天地合

乃敢与君绝

Trời cao kia ơi!

Tôi muốn cùng chàng tương thân tương ái

Xin cho tình yêu của chúng tôi mãi mãi vững bền không bao giờ suy giảm

Chỉ trừ khi nào núi cao kia bằng phẳng

Chỉ trừ khi nào sông lớn kia cạn kiệt

Chỉ trừ khi nào mùa đông sấm rền

Chỉ trừ khi nào mùa hè tuyết đổ

Chỉ trừ khi nào trời đất liền lại với nhau

Thì lúc đó tôi mới dám đoạn tuyệt tình yêu của tôi đối với chàng.

https://baike.baidu.com/item/%E4%B8%8A%E9%82%AA/1270334

Biễu mai 標梅: điển xuất từ bài Biễu hữu mai 標有梅 ở phần Thiệu Nam 召南 trong Kinh Thi , đại ý nói cô gái sợ gả không kịp thì, đã mượn hình ảnh mai rụng để bày tỏ nỗi lòng. Toàn bài có 3 chương, mỗi chương 4 câu.

Biễu hữu mai, Kì thực thất hề. Cầu ngã thứ sĩ, Đãi kì cát hề

Biễu hữu mai, Kì thực tam hề. Cầu ngã thứ sĩ, Đãi kì kim hề

Biễu hữu mai, Khuynh khuông kí chi. Cầu ngã thứ sĩ, Đãi kì vị chi

標有梅其實七兮求我庶士迨其吉兮

標有梅其實三兮求我庶士迨其今兮

標有梅頃筐塈之求我庶士迨其謂之

- Quả mai rụng xuống, trên cây chỉ còn lại bảy phần. Chàng trai có lòng tìm đến em để cưới, nhân ngày tốt mà mang lễ vật tới.

- Quả mai rụng xuống, trên cây chỉ còn lại ba phần. Chàng trai có lòng tìm đến em để cưới, kịp ngày nay chớ chờ đợi nữa.

- Quả mai rụng xuống, nghiêng giỏ mà nhặt lấy. Chàng trai có lòng tìm đến em để cưới, mau đến nói với em chớ có chần chừ.

          (“Thi kinh” 詩經 Đài Loan - Trí Dương xuất bản xã ấn hành, 2004)

          Về sau “biễu mai” 標梅được dùng để chỉ thiếu nữ đã đến tuổi thành hôn.

Xích thằng 赤繩: tức dây đỏ, dây tơ hồng, chỉ hồng, chỉ thắm ... Xuất từ điển “nguyệt hạ lão nhân” 月下老人 (ông lão dưới trăng). Trong Tục huyền quái lục 续玄怪录của Lí Phúc Ngôn 李复言đời Đường có thuật câu chuyện:

          Vi Cố 韦固 người Đỗ Lăng 杜陵, lúc nhỏ đã mồ côi. Một hôm đến trọ ở quán phía nam Tống Thành 宋城, gặp một dị nhân đang ngồi trên bậc thềm tựa vào cái túi mà kiểm sách dưới ánh trăng. Vi Cố hỏi, người nọ đáp rằng:

          - Đó là sách chép việc hôn nhân trong thiên hạ.

          Vi Cố lại hỏi trong túi đựng vật gì? Người nọ đáp:

          - Những sợi dây đỏ, dây đỏ này dùng để buộc chân đôi vợ chồng lại, sống gắn kết với nhau. Tuy là cừu thù, hoặc sang hèn cách biệt, hoặc cách xa tận chân trời, người Ngô kẻ Sở, khi đã buộc nhất định không thể tránh được.

          (“Thành ngữ đại từ điển”. Bắc Kinh: Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ti, 2004)

          Trong truyền thuyết dân gian Trung Quốc, ông lão dưới trăng (tức “nguyệt hạ lão nhân” 月下老人) dùng dây đỏ này buộc chân đôi nam nữ khiến họ trở thành vợ chồng, nên thành ngữ “nguyệt hạ lão nhân” dùng để ví người làm mai mối trong hôn nhân. Cũng từ câu chuyện trên có thành ngữ “xích thằng hệ túc” 赤绳系足 (dây đỏ buộc chân), hoặc “xích thằng”, “dây đỏ”, “dây tơ hồng” “chỉ hồng” ... ý nói việc hôn nhân do nguyệt lão mai mối. Cũng dùng để chỉ duyên chồng vợ.

 

Previous Post Next Post