“THỪA TƯỚNG” VÀ “TỂ TƯỚNG” CÓ PHẢI LÀ MỘT
Khi xem phim truyền hình Trung Quốc về thời cổ, chúng
ta thường nghe nói đến danh từ “Tể tướng” 宰相 hoặc “Thừa tướng” 丞相, đều chỉ vị quan hành chính tối
cao chỉ sau hoàng đế. Nhưng trong lịch sử lại không có quan chức “Tể tướng”, vì
sao vậy?
Từ “Thừa tướng” 丞相sớm nhất khởi nguồn từ thời Chiến Quốc, bắt đầu từ Tần
Vũ Vương 秦武王lập Tả Hữu Thừa tướng 左右丞相, nhưng cũng có lúc lập “Tướng
bang” 相邦, Nguỵ Nhiễm 魏冉, Lã Bất Vi 呂不韦từng đảm nhiệm qua chức này.
Sau khi Tần thống nhất thiết lập Tả Hữu Thừa tướng. Đầu thời Tây Hán, Tiêu Hà 萧何 là Thừa tướng 丞相, sau chuyển sang làm Tướng quốc
相国. Sau khi Tiêu Hà mất, Tào Tham
曹参 kế nhiệm. Đến những năm đầu thời
Văn Đế 文帝, lập Tả Hữu Thừa tướng, sau chỉ
lập một Thừa tướng. Đầu thời Hán, các vương quốc theo chế độ của trung ương,
cũng lập Thừa tướng trong nước phong của mình. Năm Trung Nguyên 中元thứ 5 đời Cảnh Đế 景帝, đổi gọi là Tướng 相.
Sau thời Đường Tống, Thượng thư sảnh 尚书省 hoặc Trung thư sảnh 中书省có lúc thiết lập Tả Hữu Thừa tướng,
tương đương với Thượng thư Tả hữu Bộc dịch 尚书左右仆射 (1) trước đây, vị thứ ở sau Thượng
thư lệnh 尚书令hoặc Trung thư lệnh 中书令, nắm giữ thực quyền. Đầu thời
Minh, Trung thư sảnh 中书省không
có Lệnh 令, chỉ thiết lập Tả Hữu Thừa tướng,
quyền lực cực lớn. Năm Hồng Vũ 洪武thứ 13,
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương 朱元璋 lấy
danh nghĩa “đồ mưu bất quỹ” 图谋不轨 tru
sát Thừa tướng Hồ Duy Dung 胡惟庸, đồng
thời hạ lệnh triệt Trung thư sảnh, phế bỏ Thừa tướng. Do hoàng đế đích thân nắm
giữ lục bộ, trực tiếp quản lí chính sự quốc gia. Đến đây, chế độ Thừa tướng thực
hành hơn 1600 năm trong lịch sử Trung Quốc bị phế bỏ.
“Tể tướng” 宰相thì
hoàn toàn không phải là quan danh tồn tại trong lịch sử Trung Quốc, nó chỉ là
phiếm chỉ vị trưởng quan hành chính tối cao, thông thường chỉ dưới một người,
trên muôn người. Trần Bình 陈平vị Thừa
tướng thời Tây Hán nói rằng:
Tể tướng trên thì giúp thiên tử, coi sóc âm dương, thuận
với tứ thời, dưới thì hợp với vạn vật, ngoài thì trấn thủ vỗ về tứ di chư hầu,
trong thì thân cận bách tính, khiến khanh đại phu ai nấy đều làm đúng chức vụ của
mình.
Cho nên quan danh của nó tuỳ theo triều đại mà thay thế,
trước sau xuất hiện qua: Tướng quốc 相国, Thừa
tướng 丞相, Đại tư đồ 大司徒, Tư đồ 司徒, Trung thư lệnh 中书令, Thượng thư lệnh 尚书令, Đồng bình chương sự 同平章事, Nội các Đại học sĩ 内阁大学士, Quân cơ đại thần 军机大臣… nhiều đến mấy chục quan danh.
Có thể thấy, Thừa tướng là chức quan cụ thể, Tể tướng chỉ vị trưởng quan hành chính tối cao. Nhưng trong lịch sử phong kiến dài hơn hai ngàn năm của Trung Quốc, sự khu biệt giữa Thừa tướng và Tể tướng không được rõ ràng lắm, thậm chí còn bị lẫn lộn.
Chú của
người dịch
1-Tả hữu bộc dạ左右僕射 / 左右仆射
Về âm đọc của chữ 射
Theo Khang Hi tự điển, chữ 射 có 4
âm đọc: XẠ, DẠ, THẬT, DỊCH.
- Âm XẠ bính âm là shè. Đường vận 唐韻 phiên thiết là THẦN CHÁ 神柘; Tập vận 集韻 phiên thiết là THỰC DẠ 食夜. Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên thiết là THẦN DẠ 神夜. Đều có âm đọc là 蛇 (xà) khứ thanh.
- Âm DẠ, bính âm là yè. Quảng vận 廣韻 phiên thiết là DƯƠNG TẠ 羊謝; Tập vận集韻, Vận hội韻會, Chính vận韻會 phiên thiết là DẦN TẠ 夤謝. Đều có âm là 夜 (dạ). Có ghi rằng:
Bộc dạ,
Tần quan danh
僕射秦官名
(Bộc dạ là tên chức quan triều
Tần)
- Âm THẬT, bính âm là shè. Quảng vận廣韻, Tập vận 集韻 phiên thiết là THỰC DIỆT 食亦, âm 實 (thật).
- Âm DỊCH, bính âm là yì. Quảng
vận 廣韻 phiên thiết là DƯƠNG ÍCH 羊益; Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 韻會 phiên thiết là DI ÍCH 夷益, âm 睪 (dịch).
(Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã,
2002, trang 233).
Chức quan 僕射 / 仆射, các tài liệu đều bính âm là pú yè , chú âm phù hiệu là ㄆㄨˊ ㄧㄝˋ, như vậy đọc là “bộc dạ”.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/11/2024
Nguồn
TRUNG QUỐC VĂN HOÁ 1000 VẤN
中国文化 1000 问
Tác giả: Địch Văn Minh 翟文明
Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa kiều
xuất bản xã, 2010