不管光陰長等待
餐風宿露感傷人
同心兩字曾相誓
別抱琵琶不在心
Bất
quản quang âm trường đẳng đãi
Xan phong
túc lộ cảm thương nhân
Đồng
tâm lưỡng tự tằng tương thệ
Biệt bão tì bà bất tại tâm
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 30/9/2024
Tạm dịch
từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Quản
bao tháng đợi năm chờ
Nghĩ
người ăn gió nằm mưa xót thầm
Đã
nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm
năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
(câu
553 – 556)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
且任他月月年年
悬想你 ‘飡风宿露’ 的苦境
但是, 同心共誓
抱琴不向別人鳴
Thả
nhậm tha nguyệt nguyệt niên niên
Huyền
tưởng nễ ‘xan phong túc lộ’ đích khổ cảnh
Đản
thị, đồng tâm cộng thệ
Bão cầm
bất hướng biệt nhân minh
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Bất quản 不管: dù
cho, bất kể, quản gì.
Đẳng đãi 等待: chờ
đợi.
Xan phong túc lộ 餐風宿露:
Xan phong 餐風: Ăn cơm trong gió.
Túc lộ 宿露: Ngủ ở ngoài trời.
Hình dung lộ đồ gian nan vất vả. Thành ngữ này xuất xứ
từ bài Tương chí Quân tiên kí Trì Thích Viên tam do tử 将至筠先寄迟适远三犹子 của Tô Thức 苏轼 đời Tống.
Lộ túc phong xan lục bách lí
Minh triêu ấm mã
露宿风餐六百里
明朝饮马南江水
(Đã sáu trăm dặm ăn cơm trong gió, ngủ ở ngoài trời
Sớm mai sẽ cho ngựa uống nước ở Nam Giang)
https://baike.baidu.com/item/%E9%A3%8E%E9%A4%90%E9%9C%B2%E5%AE%BF/2634561
Đồng tâm 同心: Trong Kinh Dịch phần Hệ
từ thượng có câu:
Nhị nhân đồng tâm, kì lợi đoạn kim; đồng tâm chi ngôn,
kì xú như lan.
二人同心, 其利斷金; 同心之言, 其臭如蘭
(Hai người mà đồng
lòng thì sức mạnh có thể chặt đứt kim loại; lời nói mà đồng lòng thì thơm như
hoa lan)
Biệt bão tì bà 別抱琵琶:
cũng nói là “tì bà biệt bão” 琵琶別抱 hoặc “bão tì bà” 抱琵琶 dùng
để chỉ phụ nữ tái giá, hoặc thiếu nữ có người yêu khác.
Theo “Hán ngữ từ điển”, trong bài “Tì bà hành” 琵琶行của Bạch Cư Dị 白居易 có câu:
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai
Do bão tì bà bán già diện
千呼万唤始出来
犹抱琵琶半遮面
(Mời gọi mãi mới bắt đầu xuất hiện
http://m.264.cn/cidian/id_jOW6K253gap3.html
Thực ra, theo Hứa Huy 许晖, cụm “tì bà
biệt bão” 琵琶别抱 mới nhìn qua dường như dùng để ví việc phụ nữ cải giá
hoặc tái hôn. Không ít từ điển đều quy nguồn gốc của nó là từ bài Tì bà
hành 琵琶行 của Bạch cư Dị 白居易. Nhưng Bạch Cư Dị không hề nói rõ việc tì bà nữ cải
giá, và câu “Do bão tì bà bán già diện” cũng không hề có hàm nghĩa “biệt
bão” 别抱 (ôm đàn sang thuyền khác) trong đó. Như vậy nó có nguồn
gốc từ đâu?
Nguyên ý của “tì bà biệt bão” là lời mỉa mai căm giận hạng người thay đổi
khí tiết. Trong Ẩn cư thông nghị 隐居通议 của Lưu Huân 刘埙 có thu thập bài “Đề Tì bà đình” 题琵琶亭 của Long Nhân Phu 龙仁夫:
Lão đại nga mi phụ sở thiên
Thượng lưu dư vận nhập ai huyền
Giang tâm chính hảo khan minh nguyệt
Khước bão tì bà quá biệt thuyền
老大蛾眉负所天
尚留余韵入哀弦
江心正好看明月
却抱琵琶过别船
(Nàng “nga mi” mất đi người chồng mà mình nương tựa
Dư âm ai oán còn lưu đã nhập vào dây đàn
Dòng sông đương lúc trăng rọi sáng
Nàng “nga mi” lại ôm đàn bước sang thuyền khác tiếp tục
đàn)
Bài thơ này, bề
ngoài như châm biếm mỉa mai tì bà nữ trong phút chốc dã quên người chồng đã mất,
nhưng kì thực là từ một câu chuyện gốc mà Ẩn cư thông nghị đã
thuật:
Khi Tống Nguyên
giao chiến, Đại tướng nhà Nam Tống là Lữ Văn Hoán 吕文焕 đang trấn
thủ Tương Dương 襄阳, cầm cự được 5 năm thì binh tận lương tuyệt, Lữ Văn
Hoán đầu hàng và nhậm chức quan cao của triều Nguyên. Sau khi nhà Tống mất, có
một lần, Long Nhân Phu gặp được Lữ Văn Hoán, trong lúc uống rượu ngà say, Lữ Văn
Hoán mệnh cho làm thơ, Long Nhân Phu cảm khái việc cả nhà họ Lữ không người
nào khảng khái kháng cự để báo quốc, nên mới làm bài thơ này.
“Tái tiếu” 再醮 mới là từ dùng để ví phụ nữ cải giá.
http://blog.sina.com.cn/s/blog_5f48e61d0101qhyj.html