春光好
春三月
品新茶
步當車
早寢以爲財富
日安和
禿筆墨池香起
晴窻慢透風過
今古良書同勝友
月軒斜
XUÂN
QUANG HẢO
Xuân tam nguyệt
Phẩm tân trà
Bộ đương xa
Tảo tẩm dĩ vi tài phú
Nhật an hoà
Ngốc bút mặc trì
hương khởi
Tình song mạn thấu
phong qua
Kim cổ lương thư đồng
thắng hữu
Nguyệt hiên tà
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 30/6/2024
Xuân tam nguyệt 春三月/ Phẩm tân trà 品新茶: Tháng Ba, lá trà đang lúc tươi non.
三月茶笋初肥
Tam nguyệt trà duẩn sơ phì.
(Tháng Ba, lá trà và măng đang độ
tươi non)
(“Tiểu song u kí” 小窗幽记)
Bộ đương xa 步當車: Điển xuất từ thành ngữ “An bộ
đương xa” 安步當車tức
đi bộ thung dung an nhàn cũng như ngồi xe, mượn chỉ những người tự vui với cảnh nghèo của
mình, không ham danh lợi.
Trong
“Chiến quốc sách – Tề sách tứ” 战国策 - 齐策四 có câu:
晚食以当肉, 安步以当车, 无罪以当贵, 清静贞正以自虞.
Vãn
thực dĩ đương nhục, an bộ dĩ đương xa, vô tội dĩ đương quý, thanh tĩnh trinh
chính dĩ tự ngu.
(Ăn
bữa muộn cũng giống như được có thịt, đi bộ thung dung an nhàn cũng như ngồi xe, không mắc
phải tội là quý, thanh tĩnh đoan chính lấy đó mà tự vui)
Thời
Chiến Quốc, có một hiền sĩ tên Nhan Xúc 颜斶. Tề Tuyên Vương 齐宣王 nghe tiếng liền triệu đến.
Nhan
Xúc sau khi vào cung, Tề Tuyên Vương ngạo mạn nói rằng: “Nhan Xúc, lại đây.”
Nhan Xúc từ tốn đáp lại rằng: “Đại vương, lại đây.” Tề Tuyên Vương không vui,
các đại thần cũng trách Nhan Xúc. Nhan Xúc nói rằng: “Nếu đại vương gọi mà tôi
lại, người ta cho rằng tôi ham quyền thế. Nếu tôi gọi mà đại vương lại, người
ta cho rằng đại vương trọng người hiền đãi kẻ sĩ. Để tôi mang tiếng ham quyền
thế chẳng bằng để đại vương được tiếng khen biết trọng hiền đãi sĩ.”
Tề
Tuyên Vương hơi giận hỏi rằng: “Thế thì đại vương tôn quý hay là kẻ sĩ tôn
quý?” Nhan Xúc đáp: “Đương nhiên là kẻ sĩ tôn quý. Ngày trước, khi nước Tần đánh
nước Tề, Tần Vương ra lệnh rằng: ‘Kẻ nào dám đến gần mộ của hiền sĩ Liễu Hạ Huệ
柳下惠chặt một cành cây sẽ bị chém đầu.
Kẻ nào lấy được cái đầu của Tề Vương, sẽ được phong làm Vạn Hộ Hầu, ban cho hai
vạn lượng vàng. Xem ra, cái đầu của đại vương không bằng một cành củi nơi mộ của
kẻ sĩ.’
Tề
Tuyên Vương cảm thấy đuối lí, bèn xin được làm học trò của Nhan Xúc. Tề Vương nói
rằng: ‘Khanh ở cùng với ta, ăn thì có món ngon, ra ngoài tất ngồi xe, vợ con được
mặc áo quần đẹp.’ Nhan Xúc không hề động lòng, kiên quyết từ chối, nói rằng:
‘Thần vẫn mong được trở về, mỗi ngày ăn cơm muộn cũng giống như có được thịt,
đi bộ thung dung an nhàn cũng như được ngồi xe, không phạm tội thì giữ được sự tôn quý của
bản thân, thanh tĩnh vô vi, thuận chính tự giữ mình, thì cái vui ở trong đó.’
Nói xong Nhan Xúc cáo từ ra đi.
https://baike.sogou.com/v100587.htm
Tảo tẩm dĩ vi tài phú 早寢以爲財富: Điển xuất từ trong “Tiểu
song u kí” 小窗幽记.
无事以当贵, 早寢以当富, 安步以当车, 晚食以当肉. 此巧于处贫者.
Vô sự dĩ đương quý, tảo tẩm dĩ
đương phú, an bộ dĩ đương xa, vãn thực dĩ đương nhục. Thử xảo vu xử bần giả.
(Vô
sự không bị quấy nhiễu ấy là trân quý, ngủ sớm không phải lo lắng ấy là tài
phú, đi bộ thung dung an nhàn cũng như được ngồi xe, ăn bữa muộn cũng như được có thịt. Đó
là cách sống khéo léo trong hoàn cảnh nghèo khó.)
Mặc
trì 墨池: Ao mực. Mặc trì tại vùng Lâm
Xuyên 临川thành
phố Phủ Châu 抚州
tỉnh Giang Tây 江西,
tương truyền đây là nơi mà đại thư pháp gia Vương Hi Chi 王羲之đời Tấn rửa bút nghiên sau khi tập
viết, lâu ngày nước trong ao đen như mực nên có tên như thế. Tăng Củng 曾巩 đời Tống rất hâm mộ danh tiếng
của Vương Hi Chi nên vào tháng 9 năm Khánh Lịch 庆历 thứ 8 (năm 1049), Tăng Củng đến
thăm di tích “Mặc trì”. Quan giáo thụ Vương Thạnh 王盛 nhờ ông viết một bài kí. Tăng Củng
căn cứ vào dật sự của Vương Hi Chi viết ra thiên tản văn nổi tiếng “Mặc trì kí”
墨池记. Gọi là “Mặc trì kí”, nhãn tự
không phải ở chữ “trì” 池mà là ở chỗ xiển thuật đạo lí thành tựu không phải là do trời
ban cho mà ở chỗ khắc khổ chuyên cần học tập, lấy đó để khuyến khích người học
cố gắng phấn đấu.
“Mặc
trì” 墨池ngoài
ý nghĩa là nơi Vương Hi Chi rửa bút nghiên ra, còn có những nghĩa như sau:
-
Chỉ cái nghiên mực.
-
Chỉ nơi luyện tập thư pháp.
-
Lúc chế tạo bút lông, lấy loại “dương thanh mao” 羊青毛 cho vào lớp trong cùng làm
thành “mặc trì” dùng để hút mực.