Sáng tác: Vọng Giang Đông - Vi đại đồ nan khởi hà xứ (HCH)

 

望江東

為大圖難起何處

莫輕小

休拋去

突隙蟻穴以為据

禍在後

推於此

為難起易奚思慮

必敬細

防微事

膏肓病入則危巨

惡竹斬

新松舉 

VỌNG GIANG ĐÔNG

Vi đại đồ nan khởi hà xứ

Mạc khinh tiểu

Hưu phao khứ

Đột khích nghĩ huyệt dĩ vi cứ

Hoạ tại hậu

Suy ư thử

Vi nan khởi dị hề tư lự

Tất thận tế

Phòng vi sự

Cao hoang bệnh nhập tắc nguy cự

Ác trúc trảm

Tân tùng cử

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 11/10/2023 

Bài này mượn ý từ trong Hàn Phi Tử - Dụ lão 韩非子 - 喻老:

          Hữu hình chi loại, đại tất khởi vu tiểu; hành cửu chi vật, tộc tất khởi vu thiểu. Cố viết: “Thiên hạ chi nan sự tất tác vu dị; thiên hạ chi đại sự tất tác vu tế.” Thị dĩ dục chế vật giai vu kì tế dã. Cố viết: “Đồ nan vu kì dị dã; vi đại vu kì tế dã.” Thiên trượng chi đê, dĩ lâu nghĩ chi huyệt hội; bách xích chi thất, dĩ đột khích chi yên phần. …..

          有形之类, 大必起于小; 行久之物, 族必起于少. 故曰: “天下之难事必作于易; 天下之大事必作于细.” 是以欲制物皆于其细也. 故曰: “图难于其易也; 为大于其细也.” 千丈之堤, 以蝼蚁之穴溃; 百尺之室, 以突隙之煙焚.

          (Vật có hình thể, lớn nhất định từ nhỏ phát triển mà ra; vật trải qua một thời gian dài, số lượng nhiều nhất định từ ít phát triển mà thành. Cho nên nói: “Sự việc khó trong thiên hạ nhất định bắt đầu từ chỗ dễ; việc lớn trong thiên hạ bắt đầu từ chỗ  nhỏ.” Nhân đó muốn chế phục sự vật đều phải từ lúc nó còn nhỏ. Cho nên nói: “Giải quyết việc khó phải bắt đầu từ chỗ nó còn dễ; làm việc lớn phải bắt đầu từ chỗ nó còn nhỏ.” Đê dài ngàn trượng, vì hang kiến mà bị sụp đổ; nhà cao trăm xích, vì khe hở của ống khói mà bị thiêu huỷ.) …..

Vi đại 為大: làm việc lớn. Đồ nan 圖難: giải quyết việc khó.

Vi đại đồ nan 為大圖難: mượn từ câu:

Đồ nan vu kì dị dã; vi đại vu kì tế dã.

图难于其易也; 为大于其细也

(Giải quyết việc khó phải bắt đầu từ chỗ nó còn dễ; làm việc lớn phải bắt đầu từ chỗ nó còn nhỏ.)

Đột khích突隙: khe hở của ống khói. Nghĩ huyệt 蟻穴: hang kiến.

Đột khích nghĩ huyệt突隙蟻穴: mượn từ câu:

Thiên trượng chi đê, dĩ lâu nghĩ chi huyệt hội; bách xích chi thất, dĩ đột khích chi yên phần.

          千丈之堤, 以蝼蚁之穴溃; 百尺之室, 以突隙之煙焚.

          (Đê dài ngàn trượng, vì hang kiến mà bị sụp đổ; nhà cao trăm xích, vì khe hở của ống khói mà bị thiêu huỷ)

Yên phần煙焚: Vương Dẫn Chi 王引之nói rằng: chữ “yên” ở đây là chữ “tiêu” , có nghĩa là lửa bay lên.

Thuyết văn 说文:

Tiêu, hoả phi dã, độc nhược “tiêu”

, 火飞也, 读若标

(là lửa bay lên, đọc như chữ “tiêu”)

Vi nan khởi dị 为难起易: Mượn ý ở câu trong Hàn Phi Tử - Dụ lão韩非子 - 喻老. 

Đồ nan vu kì dị dã

图难于其易也

(Giải quyết việc khó khăn phải bắt đầu từ chỗ nó còn dễ)

Tất thận (kính) tế 必敬细: Phải thận trọng từ việc nhỏ, mượn từ 敬細 trong Hàn Phi Tử - Dụ lão韩非子 - 喻老.

          Theo Trần Kì Du 陈奇猷:

đọc vi

敬读为慎

(Chữ đọc là (thận).)

          (“Hàn Phi Tử hiệu chú” 韩非子校注: Trương Giác 张角hiệu chú. Trường Sa: Nhạc Lộc thư xã, 2006)

Phòng vi sự 防微事: Đề phòng sự việc từ lúc nó mới manh nha. Điển xuất từ thành ngữ “Đỗ tiệm phòng vi” 杜漸防微, cũng nói là “Đỗ tiệm phòng manh” 杜漸防萌.

          Đỗ tiệm phòng vi” ý nói khi những sự việc xấu vừa mới xuất hiện phải lập tức khống chế ngay không để cho nỏ phát triển.

          Cao hoang bệnh nhập 膏肓病入: Tức thành ngữ  “Bệnh nhập cao hoang” 病入膏肓.          Điển xuất từ Tả truyện – Thành Công thập niên 左傳 - 成公十年:

          Tấn Cảnh Công 晋景公nằm mộng thấy một con quỷ, xoả tóc dài chấm đất, tự vỗ ngực nhảy lên, nói rằng:

          - Ngươi đã giết con cháu ta, đó là bất nghĩa. Ta thỉnh cầu báo thù cho con cháu, được Thượng Đế đồng ý.

Quỷ đập phá cung môn, tẩm môn bước vào. Tấn Cảnh Công sợ hãi, nấp vào phòng trong. Quỷ lại đập phá cửa phòng. Tấn Cảnh Công tỉnh dậy, triệu kiến thầy vu Tang Điền 桑田. Những gì thầy vu nói giống tình hình mà Tấn Cảnh Công nằm mộng thấy.  Tấn Cảnh Công hỏi rằng:

          - Như thế là thế nào?

Thầy vu nói rằng:

- Quân vương sẽ ăn không được lúa mạch mới gặt được. (ý nói sẽ chết)

          Tấn Cảnh Công bệnh nặng, đến nước Tần mời thầy thuốc. Tần Hoàn Công 秦桓公 phái thầy thuốc Hoãn sang chẩn trị. Tấn Cảnh Công lại nằm mộng thấy bệnh biến thành hai đứa bé, một đứa nói rằng:

- Ông ấy là thầy thuốc giỏi, e rằng sẽ làm hại chúng ta, chúng ta đi đâu trốn bây giờ?

Đứa bé kia nói:

- Chúng ta chui vào trên chỗ hoang, dưới chỗ cao, thì làm gì được chúng ta?

Thầy thuốc đến, nói rằng:

- Không thể chữa trị được rồi, bệnh đã ở trên cao, ở dưới hoang, dùng cứu không được, dùng châm không tới, thuốc cũng không tới, không thể trị được.

          Tấn Cảnh Công nói rằng:

- Quả là thầy thuốc giỏi.

Thế là ban cho nhiều lễ vật rồi cho về nước.

Ngày mùng 6 tháng 6, Tấn Cảnh Công muốn ăn lúa mạch mới, bảo người dâng lúa mạch, nhà bếp đem nấu. Tấn Cảnh Công cho triệu thầy vu Tang Điền đến, đưa cháo mạch mới nấu cho ông ta ăn, sau đó giết ông ấy. Tấn Cảnh Công sắp ăn, đột nhiên phát đau bụng, vào nhà xí, té ngã mà chết.

https://baike.baidu.hk/item/%E7%97%85%E5%85%A5%E8%86%8F%E8%82%93/788576

Thành ngữ  “Bệnh nhập cao hoang” 病入膏肓, xuất phát từ câu chuyện này.  hình dung bệnh tình trầm trọng đến mức không còn cách nào chữa trị. Cũng dùng để ví tình hình nghiêm trọng không có cách nào cữu vãn.

Ác trúc 惡竹, tân tùng 新松: Điển xuất từ Tương phó Thành Đô thảo đường đồ trung hữu tác tiên kí Nghiêm Trịnh Công ngũ thủ 將赴成都草堂途中有作先寄嚴鄭公五首, của Đỗ Phủ 杜甫.  Ở bài 4 có câu:

Tân tùng hận bất cao thiên xích

Ác trúc ưng tu trảm vạn can

新松恨不高千尺

惡竹應須斬萬竿

(Hận cho cây tùng mới trồng không được cao thêm ngàn xích

Với loài trúc tạp cần phải chặt cả vạn cây)

“Tân tùng” 新松 là tùng mới trồng,  “ác trúc” 惡竹 là loại trúc tạp, mọc loạn khắp nơi, lấn các loại cây khác,  ngoài nghĩa thực chỉ, còn ngụ ý điều thiện và cái ác.

Dương Luân 楊倫 trong Đỗ Phủ kính thuyên 杜甫鏡銓 có nói, hai câu đó ngụ ý “phù thiện tật ác” 扶善疾惡 (giúp điều thiện, ghét cái ác.)

Và theo Thẩm Đức Tiềm 沈德潛trong Đường thi biệt tài truyện 唐詩別裁傳, hai câu đó cũng ngụ ý  “phù quân tử, ức tiểu nhân” 扶君子抑小人 (giúp quân tử, ức chế tiểu nhân.)

Previous Post Next Post