Dịch thuật: Giáp cốt văn có phải là văn tự sớm nhất của Trung Quốc

 

GIÁP CỐT VĂN CÓ PHẢI LÀ VĂN TỰ SỚM NHẤT CỦA

 TRUNG QUỐC

          Giáp cốt văn 甲骨文, cũng gọi là “Ân Khư văn tự” 殷墟文字. “Vương bát đảm” 王八担, “Ân khế” 殷契, là loại văn tự thời Ân Thương được khắc trên mai rùa và xương thú. Gọi là giáp cốt là chỉ vỏ mai trên lưng và dưới bụng của rùa; thú cốt chủ yếu chỉ xương bả vai của trâu. Thời Ân Thương, kẻ thống trị mê tín, thường dùng những vật phẩm này tiến hành hoạt động bói toán, đồng thời đem kết qua ghi lại trên đó. Cuối thế kỉ 19. giáp cốt văn được phát hiện với một số lượng lớn, đến nay giáp cốt văn đã phát hiện đạt đến khoảng 15 vạn mảnh với hơn 4500 đơn tự, trong đó đã được nhận biết là hơn 1500 chữ.

          Giáp cốt văn đa phần ghi chép tư liệu về các phương diện như thiên văn, khí tượng, lịch pháp, địa lí, phương quốc, chinh phạt, hình ngục, nông nghiệp, súc mục … ở thời Ân Thương. Từ đặc điểm của chúng mà nói, chủ yếu bao gồm các mặt dưới đây:

          - Một là dị thể tự tương đối nhiều, đặc biệt là một số chữ hội ý, người xưa chỉ cần được thiên bàng phối hợp để biểu ý minh xác, nhân đó, một chữ trong Hán ngữ hiện đại trong giáp cốt văn có thể có mấy cách viết.

          - Hai là nét bút của tự thể bất nhất, trong một số chữ tượng hình người xưa chỉ cần miêu thuật được đặc trưng của sự vật, đối với nét bút, bút thuận không hề yêu cầu nghiêm cách.

          - Ba là lấy phồn giản của vật thực quyết định sự lớn nhỏ của tự thể, có lúc một chữ có thể chiếm vị trí của mấy chữ.

          - Bốn là nét bút tương đối nhỏ, nét bút vuông tương đối nhiều.

          Giáp cốt văn là văn tự sớm nhất có hệ thống tương đối hoàn chỉnh trong văn tự cổ đại được phát hiện ở Trung Quốc, đã hoàn toàn có đủ nguyên lí cấu tự của lục thư, thế thì nó có phải là văn tự sớm nhất của Trung Quốc không?

          Để làm rõ vấn đề này, đầu tiên phải xác định như thế nào là văn tự. Nhìn chung cho rằng, văn tự là vật dẫn văn hoá, gọi là văn tự chính là đơn vị thư tả có công năng biểu nghĩa nhất định. Tương truyền người sáng tạo văn tự của Trung Quốc là Thương Hiệt 仓颉, theo ghi chép trong Liệt Tử - Giải tế 列子 - 解蔽:

Hiếu thư giả chúng hĩ, nhi Thương Hiệt độc truyền giả nhất dã.

好书者众矣, 而仓颉独传者壹也

(Người yêu thích văn tự thì nhiều, nhưng danh tính được truyền lại chỉ có mỗi Thương Hiệt)

Trong Lã Thị Xuân Thu 吕氏春秋cũng có câu:

Hề Trọng tác xa, Thương Hiệt tác thư.

奚仲作车, 仓颉作书

(Hề Trọng làm ra xe, Thương Hiệt tạo ra chữ viết)

          Thương Hiệt là vị sử quan thời Hoàng Đế 黄帝, ước nguyện ban đầu của việc tạo chữ là nhân vì phương pháp thắt nút dây và khắc vạch đương thời không thể thoả mãn nhu cầu, một cách nói khác, sử thư mà cách thắt nút dây ghi chép lúc cung cấp sự việc lên Hoàng Đế đã có sự sai nhầm. Nguyên nhân cụ thể chúng ta không thể biết, nhưng có thể khẳng định vào thời đại đó đã có văn tự, so với lịch sử giáp cốt văn thời Ân Thương còn sớm hơn nhiều. Nhìn từ khảo cổ, trên những đồ gốm của văn hoá Long Sơn 龙山và văn hoá Ngưỡng Thiều 仰韶đã xuất hiện phù hiệu khắc vạch mang ý ý nghĩa văn tự, đây so với giáp cốt văn sớm hơn rất nhiều.

          Từ Thương Hiệt tạo chữ thành công, trải qua giáp cốt văn, đại triện, tiểu triện, lệ thư, khải thư, thảo thư, tự thể đã diễn biến, cuối cùng hình thành nên Hán tự hiện nay, là thành tựu văn minh to lớn của 5000 năm Trung Hoa.

                                                             Huỳnh Chương Hưng

                                                              Quy Nhơn 03/5/2023

Nguyên tác Trung văn

Trong quyển

THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN

趣味文化知识大全

Thanh Thạch 青石 biên soạn

Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2013

Previous Post Next Post