Dịch thuật: Chữ "đảo" 岛

 

CHỮ “ĐẢO” 

    “Đảo” là chữ hợp thành, phía trên là chữ (điểu) (bỏ đi nét ngang, khải thư là 4 nét chấm, cổ văn tự là vuốt của loài chim), phía dưới là (sơn). Ở ngôn ngữ văn tự trong ứng dụng (chủ yếu là địa danh), “sơn” có khả năng trực tiếp chỉ “đảo” . Những chú thích dưới đây đều lấy từ “Từ hải” 辞海, như:

          [Tiêu sơn 焦山] ở trong Trường giang 长江phía đông bắc thành phố Trấn Giang 镇江.

          [Kim sơn 金山] ở phía đông bắc thành phố Trấn Giang 镇江. Vốn ở trong Trường giang 长江, cuối đời Thanh, cát sông bối lấp, bắt đầu nối liền với bờ nam.

          [Phổ Đà sơn 普陀山] tức “Phổ Đà đảo” 普陀岛, ở trong Liên Hoa dương 莲花洋, thuộc thành phố Chu Sơn 舟山.

          Ngoài ra, Quy Sơn 龟山 ở Quảng Đông 广东 là tên đảo, Quy Sơn 龟山 ở Hồ Bắc 湖北tại lục địa, còn Hải Tâm Sơn 海心山ở hồ Thanh Hải 青海, vừa là núi, nhân vì là lục địa nhô cao, mà cũng là đảo, nhân vì ở trong hồ.

          Từ cách phân tích ngữ tố mà nói, “sơn” chỉ có một ngữ tố, lục địa nhô cao khỏi mặt đất. “Đảo” có hai ngữ tố: lục địa nhô cao khỏi mặt đất, và ở trong nước (một bộ phận ở trong nước, một bộ phận nối liền với lục địa, gọi là bán đảo).

          Từ khái niệm mà nói, nội hàm của khái niệm “sơn” đơn giản, ngoại diên lớn. Nội hàm của khái niệm “đảo” phong phú, ngoại diên nhỏ. Lấy núi chỉ đảo, nội hàm tăng lên, ngoại diên thu nhỏ,  “tại thuỷ lí đích” 在水里的 (ở trong nước) ngữ tố này tiềm ẩn, khác với “sơn” thông thường, là một cách dùng đặc thù.

          Ở chuyên mục “Thám sách” 探索của “Quang Minh nhật báo” 光明日报ra ngày 23 tháng 2 năm 2010, trong bài “Cẩm Châu: Học thuật nghiên cứu trùng tân phát hiện Bút Giá sơn” 锦州学术研究重新发现笔架山, chỉ ra rằng:

          “ ‘Bút Giá sơn” 笔架山không phải “sơn”, mà là “lục liên đảo” 陆连岛 (đảo nối liền lục địa) ít thấy trên thế giới’. Thành quả nghiên cứ của vị giáo sư này đã cung cấp lí luận quan trọng và căn cứ hiện thực để ngành du lịch Cẩm Châu thậm chí là kinh tế ở eo biển Bột Hải 渤海 được tăng trưởng.”

          Kì thực dùng (sơn) chỉ cho (đảo) trong các từ thư không thiếu tài liệu, đặc biệt là tự hình tiểu triện chữ (dảo), phía trên là (điểu), phía dưới là (sơn).

          Có thể thấy người xưa vô cùng thông minh, Hán tự của Trung Quốc đã chứa đựng các loại tri thức.

                                                              Huỳnh Chương Hưng

                                                              Quy Nhơn 19/5/2023

Nguồn

HÁN NGỮ HÁN TỰ VĂN HOÁ THƯỜNG ĐÀM

汉语汉字文化常谈

Tác giả: Tào Tiên Trạc 曹先擢

Thương vụ ấn thư quán Quốc Tế hữu hạn công ti

Trung Quốc – Bắc kinh 2015

Previous Post Next Post