Dịch thuật: "Tống từ tam bách thủ" - Tuyển bản từ Tống được lưu hành nhất

 

“TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ”

TUYỂN BẢN TỪ TỐNG ĐƯỢC LƯU HÀNH NHẤT

          “Tống từ tam bách thủ” 宋词三百首là tuyển bản từ Tống được thu thập biên định vào năm 1924, không phân quyển, tổng cộng có 88 từ nhân đời Tống. Người biên soạn là Chu Hiếu Tang 朱孝臧 (Chu Tổ Mưu 朱祖谋. Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民) người cuối đời Thanh đầu thời Dân Quốc, trong số tác tác phẩm được tuyển chọn thì tác phẩm của Chu Bang Ngạn 周邦彦, Khương Quỳ 姜夔, Ngô Văn Anh 吴文英là nhiều hơn cả.

Từ thịnh hành vào đời Tống

          Từ là biệt thể của thi, khi vừa mới ra đời là dựa vào khúc mà hát, nhân đó mà kiêm luôn đặc điểm về hai phương diện là văn học và âm nhạc. Mỗi bài từ đều có điệu danh, gọi là “từ bài” 词牌, dựa vào điệu mà điền từ gọi là “y thanh” 依声. Từ bắt đầu từ thời Lương thời Nam Triều, hình thành vào đời Đường. Theo ghi chép trong Cựu Đường thư 旧唐书:

Tự Khai Nguyên dĩ lai, ca giả tạp dụng Hồ Di lí hạng chi khúc.

自开元以来歌者杂用胡夷里巷之曲

(Từ thời Khai Nguyên đến nay, người ca đã tạp dụng những khúc ca nơi thôn xóm của người Hồ người Di)

Trong đô thị đương thời có rất nhiều nhạc sư đào kép lấy diễn xướng để mưu sinh, căn cứ vào nhu cầu phối hợp ca từ với tiết phách âm nhạc, mà sáng tác hoặc cải biên một số từ khúc có câu dài câu ngắn so le, đó chính là từ sớm nhất. Đời Đường, từ trong dân gian đa số đều là đề tài phản ánh loại ái tình tương tư, cho nên trong con mắt văn nhân, chúng không được bước vào “đại nhã chi đường” 大雅之堂, bị xem là “thi dư tiểu lệnh” 诗余小令.

Đến đời Tống, từ tiến vào trạng thái đỉnh thịnh, trở thành một hình thức văn học hoàn chỉnh độc lập đồng thời cùng với thể thơ chống đối nhau. Đầu đời Tống, từ nhân theo một bộ phận thời Nam Đường truyền lại, tự cho là phong lưu, ra sức sáng tác những đoản chương tiểu lệnh, những bài từ khéo léo tinh xảo. Tác gia đại biểu có Án Thù 晏殊, Âu Dương Tu 欧阳修, Trương Tiên 张先, Liễu Vĩnh 柳永. Như trong bài theo điệu Hoán khê sa  浣溪沙 của Án Thù có câu:

Vô khả nại hà hoa lạc khứ

Tự tằng tương thức yến quy lai

无可奈何花落去

自曾相识燕归来

 (Chẳng thể làm sao hoa đành rụng,

Dường như quen biết yến quay về)

          Trong bài theo điệu Điệp luyến hoa 蝶恋花 của Âu Dương Tu

Lệ nhãn vấn hoa hoa bất ngữ,

Loạn hồng phi quá thu thiên khứ

泪眼问花花不语

乱红飞过秋千去

(Mắt lệ hỏi hoa hoa chẳng nói,

Cánh hồng bay loạn khắp cây đu)

          Trong bài theo điệu Vũ lâm linh 雨霖铃 của Liễu Vĩnh 柳永:

Đa tình tự cổ thương li biệt

Cánh na kham, lãnh lạc thanh thu tiết

多情自古伤离别

更那堪, 冷落清秋节

(Những kẻ đa tình xưa nay, đau thương nhất chính là li biệt

Huống hồ lại vào lúc mùa thu thê lương lạnh lẽo)

          Sau này Từ Thức 苏轼 với đội quân lạ nổi lên làm minh chủ từ đàn, “dĩ thi nhập từ” 以诗入词 (đưa thơ vào từ), hoàn toàn đột phá đề tài truyền thống và phong cách truyền thống của từ, mở rộng cảnh giới của từ, đề cao phẩm cách của từ, mở ra một hướng mới, tích cực hướng thượng cho sự phát triển của từ. Ngoài ra, trước Tô Thức, âm nhạc là sinh mệnh của từ, nhân đó hiệp luật hợp nhạc là điều kiện đầu tiên của việc điền từ. Tô Thức đã làm cho từ từ trong khuôn khổ coi trọng nhạc thoát ra được, khiến nó lần đầu tiên trở thành một thể tài văn học. mà không chỉ là phụ dung của âm nhạc, từ đó khiến từ trong lịch sử văn học đã có được một địa vị tồn tại độc lập.

          Từ của Lí Thanh Chiếu 李清照 là quá độ của sự phát triển từ Bắc Tống hướng đến Nam Tống. Bản thân Lí Thanh Chiếu đã trải qua sự biến cách xã hội từ bắc sang nam, những gặp gỡ trong cuộc sống, những biến đổi to lớn trong sự phát sinh tình cảm tư tưởng, tương ứng với nội dung của từ, tình điệu cho đến màu sắc, âm hưởng cũng phát sinh biến hoá, từ trong sáng tươi đẹp biến thành buồn thương lưu luyến, thâm ai nhập cốt, nhưng bản sắc của từ vẫn chưa thay đổi. Sau trung kì, Tân Khí Tật 辛弃疾một đời kiêu hùng và Khương Quỳ 姜夔, lại hình thành một thời kì phồn vinh của từ đời Tống, nhất là Tân Khí Tật với những bài như  Phá trận tử -  Vị Trần Đồng Phủ phú tráng từ dĩ kí chi 破阵子 - 为陈同甫赋壮词以寄之, Giá cô thiên 鹧鸪天, Thuỷ long ngâm - Đăng Kiến Khang Thưởng Tâm đình水龙吟 - 登建康赏心亭,  Vĩnh ngộ lạc - Kinh Khẩu Bắc Cố đình hoài cổ 永遇乐 - 京口北固亭怀古 … biểu hiện được chủ đề yêu nước và cuộc kháng chiến trọng đại đương thời, miêu tả sự bài xích phái đầu hàng đang nắm triều chính, tâm tình ưu phẫn của tráng sĩ muốn báo quốc mà không có cách nào. Đến hai triều Nguyên Minh, văn học đã chuyển một cách rõ nét sang hí khúc và tiểu thuyết, thường có cách nói “từ suy vu Nguyên” 词衰于元 (từ suy thoái vào đời Nguyên)

Thượng Cương Thôn Dân biên tuyển Tống từ

          Tống từ tam bách thủ 宋词三百首 là tuyển bản từ Tống lưu hành phổ biến nhất, do Thượng Cương Thôn Dân上彊村民 – một trong tứ đại từ nhân cuối đời Thanh biên định.

          Thượng Cương Thôn Dân上彊村民 (1857 – 1931), tên Chu Hiếu Tang朱孝臧, nguyên danh là Tổ Mưu 祖谋, tự Cổ Vi 古微, hiệu Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民. Ông giữ qua các chức quan như Hội điển quán tổng toản 会典馆总纂, Giang Tây Phó khảo quan 江西副考官, Lễ bộ Hữu thị lang 礼部右侍郎, sau ra làm Quảng Đông Học chính 广东学政, nhân vì bất hoà với Tổng đốc, cuối cùng từ quan, ngụ cư tại Tô Châu 苏州, đảm nhiệm dạy tại Giang Tô Pháp Chính Học Đường 江苏法政学堂. Sau khi Dân Quốc thành lập, ông ẩn cư ở Thượng Hải 上海, trứ thuật cho đến cuối đời.

          Chu Hiếu Tang là một trong tứ đại từ nhân cuối đời Thanh, giỏi từ khúc, tác phẩm từ của ông:

          Dung chư gia chi trường, thanh tình ích trăn phác mậu, thanh cương tuyển thượng, tịnh thế từ gia suy lãnh tụ yên, thi năng nhập phẩm.

          融诸家之长, 声情益臻朴茂, 清刚隽上, 并世词家推领袖焉. 诗能入品

          (Dung hợp sở trường của các nhà, tác phẩm khi hát lên biểu đạt tình cảm rất thuần phác đôn hậu, thanh tân cao dật, các từ gia cùng thời suy tôn là lãnh tụ, thơ có thể đưa vào tác phẩm.)

          Ông đã đem những hoài bão sở học bình sinh của mình đưa hết vào trong từ, những tác phẩm có quan hệ với thời sự, như

          - Giá cô thiên – Cửu nhật Phong Nghi môn ngoại quá Bùi thôn biệt nghiệp 鹧鸪天 - 九日丰宜门外过裴村别业

          - Thanh thanh mạn – Tân Sửu thập nhất nguyệt cửu nhật. vị đam phú lạc diệp từ kiến thị cảm hoạ 声声慢 - 辛丑十一月十九日, 味耼赋落叶词见示感和

          - Chúc ảnh dao hồng – Vãn xuân quá Hoàng Công Độ nhân cảnh lư thoại cựu 烛影摇红 - 晚春过黄公度人境庐话旧

          - Mô ngư tử - Mai Châu tống xuân 摸鱼子 - 梅州送春

          - Dạ phi thước – Hương Cảng thu thiếu 夜飞鹊香港秋眺

Biểu hiện sự đồng tình đối với phái Duy Tân, cảm khái cảnh ngộ của Quang Tự Đế Trân Phi 珍妃, miêu tả cảm xúc tráng hoài linh lạc, quốc thổ luân tang, đau buồn trầm uất.

          Tống từ tam bách thủ do Chu Hiếu Tang biên định vào năm 1924. Nó nguyên là sách đọc vỡ lòng dành cho con cháu, tổng cộng có 88 từ nhân thời Tống với 300 bài từ. Chu Hiếu Tang lấy tự nhiên điển nhã làm tôn chỉ, kiêm thu thập danh thiên của các phái, bỏ những bài từ phù diễm, không theo quan điểm riêng của các phái, quả là rất có kiến giải.

                                                              Huỳnh Chương Hưng

                                                               Quy Nhơn 01/8/2022

Nguyên tác Trung văn

TỐNG TỪ TỐI LƯU HÀNH TUYỂN BẢN

 “TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ”

宋词最流行选本

宋词三百首

Trong quyển

NHẤT BẢN THƯ ĐỘC ĐỔNG

TRUNG QUỐC TRUYỀN THUYẾT VĂN HOÁ

(quyển 1)

一本书读懂中国传说文化

Tác giả: Thạch Khai Hàng 石开航

Bắc Kinh: Trung Hoa Hoa kiều xuất bản xã, 2012, tái bản 2019

Previous Post Next Post