Dịch thuật: Phụ mã

 

PHỤ Mà

          Sớm nhất, từ “phụ mã” 驸马 (ta quen gọi là phò mã - ND) không phải chỉ con rể của hoàng đế. Theo ghi chép trong Hán thư 汉书, “phụ mã” 驸马 là một chức quan, gọi đầy đủ là “Phụ mã đô uý” 驸马都尉, chủ yếu phụ trách theo xe của hoàng đế (phó xa 副车), thực danh là “Phó mã đô uý” 副马都尉, được thiết lập vào thời Hán Vũ Đế 汉武帝. Lúc ban đầu, người đảm nhiệm chức vụ này đa phần là ngoại thích của hoàng thất, còn có một số là con em của vương công đại thần, họ đều là quan thị tụng bên cạnh hoàng đế. Theo sử liệu ghi chép, việc đãi ngộ chức quan này không bạc, bổng lộc là 2000 thạch.

          “Phụ mã” 驸马 trở thành chuyên danh chỉ con rể của hoàng đế bắt đầu từ thời Nguỵ Tấn. Tương truyền, Huyền học gia Hà Án 何晏 thời Tào Nguỵ dung mạo tuấn mĩ, Nguỵ Văn Đế 魏文帝 gả công chúa Kim Hương 金乡 cho ông, đồng thời trao chức “Phó mã đô uý” 副马都尉. Thế là, các hoàng đế sau thời Nguỵ Tấn đa phần đều phong cho con rể là “Phó mã đô uý”. Qua một thời gian dài, người ta thấy dùng “phó mã” 副马chỉ chồng của công chúa không thích hợp, cho nên đổi “phó mã” sang “phụ mã” 驸马.

          Theo sự thay đổi của tên gọi, ý nghĩa “phụ mã” 驸马là chức quan cũng nhạt đi. Tỉ như, con rể của Tấn Tuyên Đế 晋宣帝 và Tấn Văn Đế 晋文帝 tuy là

“Phụ mã đô uý” 驸马都尉, nhưng chỉ là xưng hô, không có chức vị thực tế. Về sau, người ta cùng quen gọi chồng của công chúa là “phụ mã” 驸马.

          Trừ xưng vị “phụ mã” 驸马 ra, người xưa còn gọi chồng của công chúa là “đế tế” 帝婿, “chủ tế” 主婿, “quốc tế” 国婿. Ngoài ra, phụ mã còn có biệt xưng, việc này bắt đầu từ Huyền học gia Hà Án 何晏. Theo truyền thuyết, Hà Án không chỉ dung mạo xinh đẹp, mà còn có một khuôn mặt trắng trẻo mà các cô gái rất muốn. Nguỵ Văn Đế (1) tưởng Hà Án thoa phấn dối gạt hoàng thất, bèn dùng kế thăm dò. Kết quả, Hà Án lấy tay áo lau qua mà mặt không hề biến sắc, thế là người ta nhân khuôn mặt của Hà Án như thoa phấn bèn gọi ông là “Phấn Hầu” 粉侯. Cách xưng hô này về sau được dùng chỉ chồng của công chúa. Đến triều Thanh, chồng của công chúa có phong hiệu “Ngạch phụ” 额驸, chồng của công chúa mà do hoàng hậu sinh ra gọi là “Cố luân ngạch phụ” 固伦额驸, chồng của công chúa mà do phi tần sinh ra gọi là “Hoà thạc ngạch phụ” 和硕额驸.

Chú của người dịch

1- Theo Thế thuyết tân ngữ 世说新语, ở đây là Nguỵ Minh Đế Tào Duệ 魏明帝曹叡, không phải Nguỵ Văn Đế Tào Phi 魏文帝曹丕                                                  

Nguồn

BẤT KHẢ BẤT TRI ĐÍCH 3000 CÁ VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC

不可不知的 3.000 个文化常识

Biên soạn: Tinh Hán 星汉

Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2010

Phụ lục của người dịch

          Trong Thế thuyết tân ngữ - Dung chỉ 世说新语 - 容止 có chép:

          何平叔美姿仪, 面至白; 魏明帝疑其傅粉. 正夏月, 与热汤饼. 既啖, 大汗出, 以朱衣自拭, 色转皎然.

          Hà Bình Thúc mĩ tư nghi, diện chí bạch; Nguỵ Minh Đế nghi kì phu phấn. Chính hạ nguyệt, dữ nhiệt thang bính. Kí đạm, đại hãn xuất, dĩ chu y tự thức, sắc chuyển kiểu nhiên.

          Hà Bình Thúc (Hà Án – ND) tư thái dung nghi ưu mĩ, sắc mặt lại rất trắng. Nguỵ Minh Đế Tào Duệ nghi ông thoa phấn. Đương lúc mùa hạ, ban cho ông chén canh nóng. Ăn xong, mồ hôi vã ra, ông lấy tay áo màu đỏ tự lau lấy mặt, sắc mặt của ông càng trắng bóng hơn.

          (Thế thuyết tân ngữ 世说新语. Thiểm Tây lữ du xuất bản xã, 2002)

                                                                    Huỳnh Chương Hưng

                                                                    Quy Nhơn 11/7/2022

 


Previous Post Next Post