PHONG XAN LỘ
TÚC, TUYẾT HĨNH BĂNG TU (91)
風餐露宿雪脛冰鬚
Ăn gió nằm sương, chân ngập trong tuyết, râu bám đầy băng
Phong xan lộ túc 風餐露宿 / 风餐露宿:
Phong xan 風餐: Ăn cơm
trong gió.
Lộ túc 露宿: Ngủ ở ngoài trời.
Hình dung lộ
đồ gian nan vất vả. Thành ngữ này xuất xứ từ bài Tương chí Quân tiên kí Trì Thích Viên tam do tử 将至筠先寄迟适远三犹子 của
Tô Thức 苏轼 đời Tống.
Lộ túc phong
xan lục bách lí
Minh triêu ấm
mã Nam Giang thuỷ
露宿风餐六百里
明朝饮马南江水
(Đã sáu trăm dặm ăn cơm trong gió, ngủ ở ngoài trời
Sớm mai sẽ cho ngựa uống nước ở Nam Giang)
https://baike.baidu.com/item/%E9%A3%8E%E9%A4%90%E9%9C%B2%E5%AE%BF/2634561
Tuyết hĩnh băng tu 雪脛冰鬚 / 雪胫冰须:
Tuyết hĩnh 雪胫: Chân ngập
trong tuyết rơi dày.
Băng tu 冰须: Râu bám đầy
băng giá.
“Tuyết hĩnh, băng tu” hình dung nỗi gian lao khó nhọc.
Xuất xứ từ bài Tuyết
trung văn tường ngoại dục ngư thái giả cầu thụ chi thanh thậm khổ hữu cảm 雪中闻墙外鬻鱼菜者求售之声甚苦有感 của Phạm Thành
Đại 范成大thời Nam Tống. Bài thơ miêu thuật tình cảnh của một
ông lão bán rau cá dạo trên đường, cất tiếng rao khan cả giọng trong cơn tuyết
và trong cái rét.
Huề la khu xuất
cảm thâu nhàn
Tuyết hĩnh
băng tu quán nhẫn hàn
Khởi thị bất
năng quynh hộ toạ
Nhẫn hàn do
khả nhẫn cơ nan
Đề hào thăng
đẩu để thiên câm
Đống tước cơ
nha cộng nhất âm
Lao nhữ dĩ
sinh linh chí thử
Du du đại khối
quả hà tâm
携箩驱出敢偷闲
雪胫冰须惯忍寒
岂是不能扃户坐
忍寒犹可忍饥难
啼号升斗抵千金
冻雀饥鸦共一音
劳汝以生令至此
悠悠大块果何心
(Xách giỏ đi rao lạc cả giọng mà nào dám nghỉ
Chân ngập trong tuyết, râu bám đầy băng, vì cuộc sống
mà nhẫn được cái rét
Há ông chẳng muốn đóng cửa ngồi sưởi ấm cùng với người
thân sao
Chịu rét còn có thể chứ chịu cơn đói thì thật là khó
vô cùng
Rao bán chút cá rau, mà một thăng một đấu lương thực giá
đến cả ngàn vàng
Tiếng rao của ông tha thiết chẳng khác nào tiếng chim
sẽ bị rét chim quạ bị đói
Cuộc sống đã bức ông lao khổ đến mức này
Trời đất mênh mông kia có an được tâm không)
http://www.guoxuemeng.com/mingju/428659.html
Câu 91 này, bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của
Đoàn Thị Điểm là:
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong (86)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 23/7/2021