Dịch thuật: Đô ấp và thương nghiệp đời Chu (tiếp theo)

 

ĐÔ ẤP VÀ THƯƠNG NGHIỆP ĐỜI CHU

(tiếp theo)

          Những kiến trúc trọng yếu trong quốc đô, có cung điện, đài tạ, uyển hựu, thương lẫm, phủ khố, các Tổ miếu, miếu Xã thờ Thổ thần, miếu Tắc thờ Cốc thần của quốc quân; phủ đệ của khanh đại phu và khách quán cư trú dành cho sứ thần ngoại quốc. Những kiến trúc này tại trung tâm của thành, phía ngoài chung quanh có nhà dân và chợ. Chợ hơn một nửa ở bên cạnh đường lớn gần cổng quách. Bên ngoài cổng quách có tiểu trì hoặc tiểu hà hộ thành. Cầu bên trên đại khái là tuỳ thời có thể di động. Việc vào thành quách theo tấm ván cửa có thể thăng giáng. Cổng thành thường có người canh giữ, ban đêm đóng lại, người giữ cổng “kích thác” 击柝 (đánh mõ canh) suốt đêm. Hàng hoá thông qua cổng thành phải nộp thuế, đây là một món thu nhập lớn của quốc quân.

          Đô ấp cũng là trung tâm thương nghiệp. Chậm nhất là hạ bán kì thời Xuân Thu, một số đô ấp thông đi bốn phương tám hướng đã có thể thấy thương nhân giàu có “kim ngọc kì xa, văn thác kì phục” 金玉其车, 文错其服 (vàng ngọc chạm vào xe, hoa văn thêu trên y phục). Họ có được những trân báu mà đại phu giàu có không thể có được, họ lén nhận hối lộ mà tiểu chư hầu không thể lén nhận. Có lúc họ lại tiến vào vũ đài chính trị của quý tộc bao biện. Sử cũ bảo tồn hai ví dụ như sau:

          Năm 597 trước công nguyên, Đại tướng quân Tấn là Tri Anh 知罃tại chiến trường bị người Sở bắt. Một thương nhân nước Trịnh buôn bán ở nước Sở muốn giấu ông ta trong đống tơ lụa, lén chở đi. Kế sách đó đã định xong, nhưng chưa thực hành thì nước Sở đã cho thả Tri Anh. Về sau vị thương nhân này đến nước Tấn, Tri Anh tiếp đãi ông như là người đã cứu mình. Vị thương nhân đó khiêm tốn cho là không có thời gian nên đi đến nước Tề.

          Năm 627 trước công nguyên, người Tần ngầm đánh nước Trịnh, đi đến vương thành gặp thương nhân nước Trịnh là Huyền Cao 弦高. Huyền Cao dọ biết được ý đi đến đây của họ, bèn một mặt giả thác danh nghĩa Trịnh quân 郑君, đem 4 tấm da dê đã thục và 12 con trâu để khao quân, một mặt sai người hướng đến Trịnh quân báo cáo, người Tần cho rằng nước Trịnh biết nên đã phòng bị, đành thủ tiêu kế hoạch đánh Trịnh. 

         Thương nhân trong hai câu chuyện này đều là người nước Trịnh. Như câu chuyện cho thấy, phạm vi mua bán của thương nhân nước Trịnh ít nhất  phía tây bắc đến vương thành và nước Tấn, phía đông đến nước Tề, phía nam đến nước Sở. Thương nhân sớm nhất của nước Trịnh vốn là di dân của nhà Thương ở Hạo kinh 镐京, khi Trịnh Hoàn Công 郑桓公 bắt đầu thụ phong, cùng với họ đến đất phong, giúp họ dọn cỏ bồng cỏ hao, mở mang đất đai. Trịnh quân và họ lập qua lời thề:

         Nhĩ vô ngã bạn, ngã vô cưỡng cổ, vô hoặc cái đoạt, nhĩ hữu lợi thị bảo hối, ngã vật dữ tri.

          尔无我叛, 我无强贾, 或匃夺. 尔有利市宝贿, 我勿与知

          (Ngươi không phản ta, ta không ép mua hàng của ngươi, chớ có cầu xin, chớ có cướp đoạt. Ngươi buôn bán kiếm được tiền và đồ vật quý báu, ta cũng không hỏi đến)

          Nước Trịnh ở vào vị trí trung tâm của giao thông, từ khi dời về phía đông đã có nhiều thương nhân giàu kinh nghiệm, họ lại có được sự bảo hộ đặc định, cho nên thương nghiệp nước Trịnh đặc biệt phát đạt. Nhưng những thứ mà thương nhân buôn bán vào thời kì này đại bộ phận chỉ là nông sản phẩm như tơ gai vải lụa và ngũ cốc, cộng thêm hàng công nghệ phẩm của một số gia đình. Công nghệ mà thuê sức lao động hoặc nô lệ cung ứng vẫn chưa xuất hiện.

          Hoá tệ của người Chu, ngoài “bối” (vỏ sò) ra còn có đồng. Trong minh văn trên di khí thời Tây Chu có những ghi chép đại loại như:

          Tác bảo tôn di, dụng bối thập bằng hựu tứ bằng (1).

          作宝尊彝, 用贝十朋又四朋

          (Chế tạo bảo tôn di, dùng bối 10 bằng lại thêm 4 bằng)

          Cũng có ghi chép phạt tội lấy “kim” (tức đồng) một số luyệt (2). Theo truyền thuyết Chu Cảnh Vương 周景王 (từ năm 544 đến năm 521 trước công nguyên) đã bắt đầu đúc đại tiền. Nhưng bối và “kim” dường như đến thời Xuân Thu vẫn không được dùng làm hoá tệ chính và phổ biến, mãi đến nửa thời kì sau thời Xuân Thu, việc đưa hối lộ nhiều ít vẫn dùng ruộng đất, ngựa xe, lụa, di khí hoặc ngọc khí, mà không nghe nói dùng bối hoặc “kim”, còn tiền thì càng khỏi phái nói.  (hết)

Chú của người dịch

1- Bằng : Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: Năm vỏ sò là một bằng.

2- Luyệt : Đơn vị trọng lượng thời cổ. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, một luyệt là sáu lạng mười sáu thù.

                                                                Huỳnh Chương Hưng

                                                                Quy Nhơn 18/01/2021

Nguyên tác

ĐÔ ẤP DỮ THƯƠNG NGHIỆP

都邑与商业

Trong quyển

 TRUNG QUỐC SỬ CƯƠNG

中国史纲

Tác giả: Trương Ấm Lân 张荫麟

Bắc Kinh: Hoá học công nghiệp xuất bản xã, 2017

Previous Post Next Post