Dịch thuật: Đường đường chính chính, bản lai bất thất (Thái căn đàm)



堂堂正正   本来不失
    夸逞功业, 炫耀文章, 皆是靠外物做人. 不知心体莹然, 本来不失, 即无寸功只字, 亦自有堂堂正正做人处.
                                                                        (菜根谭 - 立德修身)

ĐƯỜNG ĐƯỜNG CHÍNH CHÍNH  BẢN LAI BẤT THẤT
          Khoa sính công nghiệp, huyễn diệu văn chương, giai thị kháo ngoại vật tố nhân. Bất tri tâm thể oánh nhiên, bản lai bất thất, tức vô thốn công chỉ tự, diệc tự hữu đường đường chính chính tố nhân xứ.
                                              (Thái căn đàm – Lập đức tu thân)

ĐƯỜNG ĐƯỜNG CHÍNH CHÍNH,
 ĐỪNG LÀM MẤT BẢN TÍNH TỰ NHIÊN
Phô trương công nghiệp của mình, khoe khoang văn chương của mình, đều là dựa vào ngoại vật để làm người. Sao chẳng biết, chỉ cần giữ tâm địa của mình thuần khiết trong sạch, không làm mất bản đi tính tự nhiên, thì cho dù chẳng có chút công nghiệp gì, chẳng có chút văn chương gì, cũng có thể đường đường chính chính làm người.

Giải thích và phân tích
          Các bậc triết nhân cổ đại Trung Quốc đề xuất qua luận đoán “tam bất hủ” 三不朽nổi tiếng: “Trên hết là lập đức, thứ đến là lập công và sau nữa là lập ngôn, tuy trải qua thời gian lâu dài nhưng không bao giờ hư hỏng. Đó gọi là tam bất hủ.”
          Chính như người xưa có nói: công cao, tài cao đều không bằng đức cao. Đối với người bình thường mà nói, lập công và lập ngôn đều không phải là việc dễ dàng, nhưng lập đức lại có thể làm từ việc nhỏ bên cạnh mình, chỉ cần có lòng kính sợ, có ý thức đạo đức, thì đã bước đi trên con đường lập đức. Khí tiết cao thượng là mùi thơm toả ra từ nơi sâu thẳm của linh hồn. Dựa vào chút thông minh nhất thời, phô trương với mọi người để lấy được lòng họ chẳng bằng đem mùi thơm để lại ân huệ cho đời sau.
          Văn Thiên Tường 文天祥 – thi nhân nổi tiếng thời Nam Tống nhân vì khí tiết cao thượng mà để tiếng thơm lại ngàn thu. Văn Thiên Tường, tự Tống Thuỵ 宋瑞, người huyện Cát Thuỷ 吉水 Giang Tây 江西, 20 tuổi đỗ Tiến sĩ, đỗ đầu thi đình. Năm 1259, quân Nguyên tấn công Nam Tống, hoạn quan Đổng Tông Thần 宗臣 khuyên hoàng đế dời đô tháo chạy, Văn Thiên Tường dâng thư kiên quyết phản đối, đồng thời thỉnh cầu hoàng đế ổn định lòng dân ban chiếu giết Đổng Tông Thần.
          Mùa thu năm 1274, quân Tống tiến gần đến Tống đô là Lâm An 临安, Tống đế ra lệnh trưng quân trong toàn quốc hộ giá. Văn Thiên Tường tại Cám Châu 赣州 chiêu mộ hào kiệt chí sĩ, tổ chức thành đội “Cần vương quân” 勤王军 lên đến mấy vạn người, năm 1275 đến Lâm An. Đầu năm 1276, Thường Châu 常州 nguy cấp, Văn Thiên Tường phái bộ tướng đem binh cứu viện, nhưng chưa kịp giải vây Thường Châu, quân Nguyên nhân cơ hội đó tiến đến Lâm An phát động tấn công cuối cùng, Văn Thiên Tường đành lui về Lâm An.
          Sau khi về đến Lâm An, Văn Thiên Tường cùng danh tướng Trương Thế Kiệt 张世杰 chủ trương tập trung toàn bộ “Cần vương quân” ở Lâm An quyết chiến cùng quân Nguyên. Nhưng Tể tướng đương quyền Trần Nghi Trung 陈宜中 lại muốn quỳ gối đầu hàng quân Nguyên, quân Nguyên được một tấc lấn thêm một thước, từng bước tiến gần.
          Năm 1276, Văn Thiên Tường đàm phán cùng quân Nguyên, nhưng bị tướng Nguyên là Bá Nhan 伯颜 bắt giữ. Đối với sự quyến dụ và uy hiếp của Bá Nhan, Văn Thiên Tường không hề thay đổi sắc mặt, vì thế bị áp giải về phương
bắc. Khi đến Trấn Giang 镇江 Giang Tô 江苏, Văn Thiên Tường thừa cơ đào thoát, trải qua biết bao gian nguy hiểm trở, đi thuyền đến Phúc Châu 福州, Tống Đoan Tông Triệu Thị vừa mới lên ngôi chẳng bao lâu đã nhậm mệnh ông làm Hữu thừa tướng kiêm Tri xu mật viện sự. Văn Thiên Tường nhậm mệnh ra ngoài chiêu mộ quân đội, ông điều khiển binh tướng thu phục lại mấy nơi, lại được binh ở Giang Tây đến cứu viện, phút chốc thanh thế tăng cao. Sau đó, Văn Thiên Tường lại thống lĩnh quân phản công Giang Tây, đánh quân Nguyên một trận tơi tả. Nhưng rốt cuộc đội quân mà do Văn Thiên Tường tổ chức không có kinh nghiệm chiến đấu nên đã bị quân Nguyên đánh tan, Văn Thiên Tường may mắn thoát được.
          Năm 1278, Văn Thiên Tường tổ chức quân dân tiến tục kháng cự, sau do vì có kẻ phản bội bán đứng ông, ông bị bắt. Khi qua Linh Đinh dương 零丁洋, ông đã viết mấy câu thơ lưu danh thiên cổ:
Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
人生自古谁无死
留取丹心照汗青
(Người đời xưa nay ai mà không chết
Chỉ cần lưu lại tấm lòng son trong sử sách)
          Sau khi nhà Tống diệt vong, Văn Thiên Tường bị áp giải đến Đại Đô 大都, trải qua biết bao gian khổ, nhưng vẫn kiên trinh bất khuất. Trong ngục, ông đã viết bài Chính khí ca 正气歌 nổi tiếng, bày tỏ quyết tâm xem cái chết như đi về. Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt 忽必烈 vô cùng khâm phục khí tiết của Văn Thiên Tường, đích thân khuyên hàng, nhưng ông vẫn thủ tiết. Năm 1282, Nguyên Thế tổ hạ lệnh xử tử Văn Thiên Tường để tuyệt hậu hoạn.
          Khí tiết trong sáng cao thượng của Văn Thiên Tường đã được người đời tán tụng. Thi phẩm, nhân phẩm thống nhất hài hoà, như nhật nguyệt chiếu rọi ngày càng toả sáng.
          Sau khi Văn Thiên Tường tuẫn nạn, mọi người dùng nhiều phương thức để kỉ niệm ông. Vương Viêm Ngọ 王炎午 từng tham gia nghĩa quân đã viết Vọng tế Văn Thiên Tường văn 望祭文天祥文, tán dương lòng kiên trinh của ông như cây tùng cây bách giữa mùa đông lạnh. Cái chết của Văn Thiên Tường khiến cho:
Sơn hà đốn tức cải sắc, nhật nguyệt vị chi thao quang (1)
山河顿即改色, 日月为之韬光
(Sắc màu của sơn hà biến đổi, ánh sáng của nhật nguyệt lu mờ)
          Năm 1323, tại quận học ở Cát Châu, quê hương của Văn Thiên Tường, di tượng của ông được đặt ở Tiên hiền đường, ngang hàng với Âu Dương Tu 欧阳修, Dương Bang Nghệ 杨邦乂, Hồ Thuyên 胡铨, được người đời sau thờ phụng. Năm 1376, Giáo trung phường 教忠坊 ở Bắc Kinh đã kiến lập “Văn Thừa Tướng từ” 文丞相祠, sau đó tại Lư Lăng 庐陵 Cát Châu 吉州 cũng kiến lập “Thừa Tướng trung liệt từ” 丞相忠烈祠. Văn tập, truyện kí của Văn Thiên Tường lưu truyền rất rộng trong dân gian, chính khí dân tộc trải qua thời gian không suy. Hiền nhân đã mất, nhưng lời của ông hãy còn, “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử. Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” đã khích lệ biết bao những người con ưu tú của đời sau, trong giấy phút sinh tử tồn vong, xả sinh vong tử, đã hoàn toàn vì nghĩa lớn. Cho nên, đường đường chính chính, đừng làm mất đi bản tính tự nhiên mới là cái đạo làm người.

Chú của người dịch
1- Câu này trong nguyên tác không có chữ “sơn” :
Hà đốn tức cải sắc, nhật nguyệt vị chi thao quang.
河顿即改色, 日月为之韬光
Tôi theo Vọng tế Văn Thiên Tường văn 望祭文天祥文 thêm vào chữ:
Nhật nguyệt thao quang, sơn hà cải sắc
日月韬光, 山河改色

                                                             Huỳnh Chương Hưng
                                                             Quy Nhơn 08/10/2017

Nguồn
THÁI CĂN ĐÀM
菜根谭
Tác giả: (Minh) Hồng Ứng Minh 洪应明
Biên soạn: Bàng Bác 庞博
Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2013
Previous Post Next Post