Dịch thuật: Khể thủ, đốn thủ - Bàn về chữ "bái"

KHỂ THỦ ĐỐN THỦ
BÀN VỀ CHỮ “BÁI”

          Chữ (bái), bên trái 3 nét ngang, bên phải 4 nét ngang, phần trên là 2 tay hợp lại. Đã là 2 tay, tại sao bên phải của chữ là nhiều hơn 1 nét? Bái là từ hai tay hợp lại, nguyên phần dưới của chữ có 1 nét ngang, 1 nét sổ, là chữ (hạ) (1). Trong Thuyết văn 说文 có nói, bái là tay và tim ngang nhau, đầu cuối xuống đến tay. Từ 1 nét ngang, chúng ta có thể suy đoán được tình hình khi “bái”. Bái là chữ hội ý, từ “song thủ” với “hạ” hội ý lại mà ra.
          Hình thức của bái rất đa dạng. Trong Chu lễ 周礼  có ghi chép. Bái có 9 loại như “khể thủ” 稽首, “đốn thủ” 顿首, “không bái” 空拜 (2). Bái có đến 9 loại, khẳng định lễ tiết phức tạp trong xã hội phong kiến. Nhưng được xem là một loại văn hoá lễ nghi, nó cũng đã kéo dài liên tục đến mấy ngàn năm.
          “Khể thủ”, “đốn thủ”  nguyên là lễ quân thần, một loại đại lễ, sau trở thành một hình thức quỳ bái thông thường. Nó đồng với khấu đầu, dập đầu. Chỉ có điều, khi khể thủ, người quỳ dưới đất đưa đầu chạm đât, đầu chạm đất cần lưu lại một khoảng thời gian, sau đó mới ngẩng đầu lên. Đốn thủ có khác, người quỳ dưới đất, đưa đầu chạm đất, khi chạm xong lập tức ngẩng lên. Từ “đốn thủ” hiện nay trong thư tịch vẫn thường có người dùng, là loại kính từ, biểu thị sự tôn trọng đối phương. “Không bái” nguyên là lễ tiết quân đáp lại thần, không bái là 2 tay hợp lại, sau đó bái chạm đến tay, đầu không chạm đât (3). Sau không bái cũng trở thành một lễ thức thông thường, gần với chắp tay vái.
          “Mô bái” 膜拜 cũng gọi là “đính lễ mô bái” 顶礼膜拜, đây cũng là một loại đại lễ. Mô bái là 2 tay đưa lên trán, sau đó quỳ lạy, là lễ tiết dùng đối với người tôn kính nhất, hoặc người mà mình sợ . Mô bái biểu thị sự tôn kính, cũng biểu thị sự thần phục. Khi lễ Phật, người ta thường mô bái, cũng có khi quỳ dưới đất, đầu chạm vào chân bậc tôn kính, là cách kính lễ của tín đồ Phật giáo.  
          Quỳ bái nói cho cùng là loại lễ tiết phong kiến, thời cách mạng dân chủ, chính phủ lâm thời Nam Kinh từng ra lệnh phế bỏ. Việc này gặp phải sự phản đối của thế lực bảo thủ. Đương thời có người thốt ra câu nói hoang đường:
          - Không bái thiên, không bái địa, để đầu gối để làm gì.
          Từ điểm này có thể thấy sự tranh chấp của tư tưởng đương thời rất kịch liệt. Trào lưu cách mạng dân chủ dâng trào, cách quỳ bái của Trung Quốc rốt cuộc bị cách khom người, bắt tay chào hỏi thay thế.
          “Bái tướng” 拜将 là loại nghi thức có liên quan đến quỳ bái. Bái tướng là vị quốc quân trao quyền cho tướng lĩnh, cần chọn ngày tốt, phải trai giới, quốc quân tại Thái miếu trước tiên trao cho tướng lĩnh cán phủ cán việt, rồi trao phủ và việt (2 loại binh khí), sau đó tướng lĩnh hướng đến quốc quân bày tỏ lòng trung thành,  thề không hai lòng.
          “Bái tước” 拜爵 là trao tước vị, cũng có nghi thức.
          “Bái mệnh” 拜命 là người nhận mệnh cảm tạ người đã trao mệnh, bái mệnh cũng chỉ “bái quan” 拜官.
          “Bái quan” 拜官 tức nhận chức quan.
         “Bái trừ” 拜除 cũng là trao chức quan, mang hàm nghĩa trao chức quan mới bỏ chức quan cũ.
          “Bái biểu” 拜表là dâng tấu chương.
          “Lễ bái” 礼拜 là dùng một lễ tiết nhất định để tiến kiến nhân vật được kính trọng hoặc trước di ảnh, lăng mộ.
          “Lễ bái thiên” 礼拜天 là ngày hoạt động tôn giáo của tân giáo Cơ Đốc giáo, những hoạt động này đều cử hành tại lễ đường vào ngày chủ nhật.

Chú của nguyên tác
1- Thanh . Vương Quân 王筠 Thuyết văn cú đậu 说文句读 quyển 23, Trung Hoa thư điếm.
2- Chu lễ - Xuân quan – Đại chúc 周礼春官大祝 trang 260 bái hữu cửu chủng:
          Nhất viết khể thủ, nhị viết đốn thủ, tam viết không thủ, tứ viết chấn động, ngũ viết cát bái, lục viết hung bái, thất viết kì bái, bát viết bao bái, cửu viết túc bái.
          一曰稽首, 二曰顿首, 三曰空首, 四曰振动, 五曰吉拜, 六曰凶拜, 七曰奇拜, 八曰褒拜, 九曰肃拜.
          Thư mục văn hiến xuất bản xã.
3- Tống . Vương Mậu 王楙 Dã khách tùng thư 野客从书 trang 329:
Không bái, đầu chí vu thủ dã.
空拜, 头至于手也
(Không bái là đầu cúi xuống chạm đến tay)
          Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã.

                                                          Huỳnh Chương Hưng
                                                          Quy Nhơn 05/4/2017
              
Nguyên tác Trung văn
KHỂ THỦ, ĐỐN THỦ
ĐÀM “BÁI”
稽首, 顿首
  “
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998
Previous Post Next Post