LỤC BỘ
Thượng
thư 尚書 vốn là thuộc quan của Cửu khanh Trung thiếu phủ 九卿中少府, sau khi phát triển thành Thượng thư đài 尚書臺, sự vụ tăng nhiều nên chia tào 曹 để lo việc, mỗi tào đặt 1 Thượng thư, đây là tiền
thân của các bộ trung ương ở đời sau. Từ thời Đông Hán đến thời Nam Bắc triều,
bộ tào vẫn chưa thành định chế, đời Tuỳ bắt đầu định ra 6 bộ là Lại 吏, Dân 民, Lễ 禮, Binh 兵, Hình 刑, Công 工, thuộc Thượng thư sảnh
尚書省. Thời Đường nhân vì tị huý Thái Tông nên đổi bộ Dân
thành bộ Hộ 戶. Từ đó về sau các triều đại đều theo, trở thành chế độ
lục bộ của cơ cấu chính phủ trung ương.
Chức
trách của lục bộ đại để như sau:
1- Bộ Lại 吏: nắm giữ việc bổ
nhậm, bãi miễn, thẩm tra sắp xếp, khảo sát thành tích, thăng giáng các quan lại.
2- Bộ Hộ 戶: nắm giữ đất
đai, hộ khẩu, thuế khoá, tài chính.
3- Bộ Lễ 禮: nắm giữ điển lễ,
khoa cử, trường học.
4- Bộ Binh 兵: nắm giữ quân
chính trong cả nước.
5- Bộ Hình 刑: nắm giữ hình
pháp, ngục tụng.
6- Bộ Công 工: nắm giữ công
trình, xây dựng, đồn điền, thuỷ lợi.
Thủ trưởng
các bộ gọi là Thượng thư 尚書, phó thủ trưởng gọi
là Thị lang 侍郎. Dưới bộ đặt các ti 司 (1). Thủ trưởng của ti gọi là Lang trung 郎中, phó thủ trưởng gọi là Viên ngoại lang 員外郎. Thuộc quan có Đô sự 都事, Chủ sự 主事 .
Lục bộ
phỏng theo lục quan trong Chu lễ 周禮, dưới đây là bảng
đối chiếu:
Lục
bộ Thượng thư “Chu
lễ” lục quan
Lại
bộ Thượng thư Thiên quan Đại tể (Trủng tể) (2)
吏部尚書 天官大宰(冢宰) (2)
Hộ
bộ Thượng thư Địa quan Đại tư đồ
戶部尚書 地官大司徒
Lễ bộ Thượng thư Xuân quan Đại tông bá
禮部尚書 春官大宗伯
Binh
bộ Thượng thư Hạ quan Đại tư mã
兵部尚書
夏官大司馬
Hình
bộ Thượng thư Thu quan Đại tư khấu
刑部尚書 秋官大司寇
Công
bộ Thượng thư Đông quan Đại tư không (3)
工部尚書
冬官大司空 (3)
Đời sau
lấy lục quan trong “Chu lễ” gọi thay Thượng thư của lục bộ, như Thượng thư bộ Hộ
thì gọi là Đại tư đồ, Thượng thư bộ Lễ thì gọi là Đại tông bá (4).
Lục bộ
thành lập, chức quyền của các khanh 卿 thu hẹp lại, có chức
khanh nhập vào bộ ti có liên quan, và về sau dần bãi bỏ.
CHÚ CỦA NGUYÊN TÁC
(1)- Thời Tuỳ Đường, mỗi bộ phân làm 4 ti, ti đầu tiên
lấy tên gọi của bộ, “tá kì trưởng nhi hành chính lệnh” 佐其長而行政令 (giúp trưởng thi hành mệnh lệnh hành chính), 3 ti còn lại mỗi ti sẽ lấy
chức vụ mà ti mình nắm giữ để đặt tên. Ví dụ bộ Lại đời Đường, ti đầu tiên vẫn
gọi là Lại bộ, 3 ti còn lại là Ti phong 司封,
Ti huân 司勳, Khảo công 考功. Các bộ ti đời sau
có sự điều chỉnh, tên gọi cũng không tương đồng hết.
(2)- Đỗ Hựu 杜佑 trong Thông điển 通典 , quyển 23, mục Chức
quan 職官 5 có nói:
Nếu tham khảo kĩ cổ kim, trưng khảo chức nhậm,
thì “Thiên quan Đại tể” phải là Thượng thư lệnh, không phải nhậm chức Lại bộ. Lại
bộ của hiện nay xuất phát từ Tư sĩ 司士 của Hạ quan 夏官.
3- Chu lễ - Đông
quan – Tư không 周禮 - 冬官 - 司空 mất từ lâu. Khảo công kí考工記 được bổ sung
sau này không đủ để gọi là Đông quan – Tư
không
4- Nhưng Thượng thư bộ Lại thì gọi là Trủng tể 冢宰. Đời Thanh, bộ Hộ nắm giữ lương thực chở bằng đường
thuỷ, thuế ruộng, nên gọi Thượng thư bộ Hộ là Đại tư nông 大司農.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 18/3/2013
Nguyên tác Trung
văn
Trong quyển
CỔ ĐẠI HÁN NGỮ
古代漢語
(tập 3)
Chủ biên: Vương
Lực 王力
Trung Hoa thư cục
1998.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật