醉花阴
薄雾浓云愁永昼 1, 瑞脑销金兽 2. 佳节又重阳, 玉枕纱厨 3, 半夜凉初透.
东篱 4 把酒黄昏后, 有暗香盈袖 5. 莫道不销魂 6, 帘卷西风 7, 人比黄花 8 瘦.
(李清照)
TUÝ HOA ÂM
Bạc
vụ nùng vân sầu vĩnh trú 1, thuỵ não tiêu kim thú 2. Giai
tiết hựu Trùng Dương, ngọc chẩm sa trù 3, bán dạ lương sơ thấu.
Đông
li 4 bả tửu hoàng hôn hậu, hữu ám hương doanh tụ 5. Mạc đạo
bất tiêu hồn 6, liêm quyển tây phong 7, nhân tỉ hoàng hoa
8 sấu.
(Lí Thanh Chiếu)
Chú thích
1-
VĨNH TRÚ 永昼: suốt cả ngày dài
2-
THUỴ NÃO 瑞脑: tức long não 龙脑, tên một loại hương liệu,
cũng còn được gọi là “long thuỵ não”.
KIM
THÚ 金兽: lò hương bằng đồng hình con
thú.
3-
NGỌC CHẨM 玉枕: từ mĩ
xưng chỉ cái gối đầu.
SA
TRÙ 纱厨: tức bích sa trù, một loại
màn lụa.
4-
ĐÔNG LI 东篱: trong bài Ẩm
tửu 饮酒 của Đào Uyên Minh 陶渊明 có câu:
Thái cúc đông li hạ
Du nhiên kiến Nam
sơn
采菊东篱下
悠然见南山
Hái cúc bên giậu đông,
Thư thái thấy núi Nam
Về sau mượn “đông li” để chỉ nơi thưởng
ngắm hoa cúc.
5- HỮU
ÁM HƯƠNG DOANH TỤ 有暗香盈袖: câu
này lấy ý từ Cổ thi thập cửu thủ 古诗十九首:
Phan điều chiết kì vinh
Tương dĩ di sở tư
Hinh hương doanh hoài tụ
Lộ viễn mạc trí chi
攀条折其荣
将以遗所思
馨香盈怀袖
路远莫致之
Vin nhánh bẻ một cành
hoa
Để tặng người
thương nhớ
Hương thơm của hoa
tràn cả áo
Nhưng vì đường xa
không làm sao gửi đến được.
Câu thơ biểu đạt nỗi nhớ mong.
ÁM
HƯƠNG 暗香: hương ngầm, ở đây chỉ mùi
hương của hoa cúc.
DOANH
盈: tràn đầy.
6-
TIÊU HỒN 销魂: cực độ bi thương sầu khổ.
7-
LIÊM QUYỂN TÂY PHONG 帘卷西风: tức “Tây
phong liêm quyển”, gió tây thổi cuốn rèm.
8-
HOÀNG HOA 黄花: chỉ hoa
cúc.
Dịch nghĩa
TUÝ HOA ÂM
Khí mù thưa cùng với đám mây dày lướt qua, sầu trọn cả ngày
dài, long não trong lò hương hình thú đã tan hết từ lâu. Tiết đẹp lại đến ngày
Trùng Dương, gối ngọc màn sa đơn chiếc, nửa đêm hôm qua luồng khí lạnh tràn
vào.
Bên giậu đông nâng chén rượu cho đến sau lúc hoàng hôn, mùi
hương ngầm thấm đầy cả áo. Chớ bảo rằng không sầu không khổ. Gió tây thổi đến
cuốn bức rèm buông, thiếu phụ chốn phòng
khuê còn gầy hơn cả hoa kia.
Dịch thơ
TUÝ HOA ÂM
Mây dày sầu cũng dày
thêm,
Lò hương long não êm
đềm tan đi.
Trùng Dương tiết đẹp
gặp kì,
Gối màn đơn chiếc đêm
thì lạnh sao.
Giậu đông nâng chén
rượu đào,
Chiều hôm hương toả
tràn vào áo đây
Sầu kia trĩu nặng bủa
vây,
Rèm buông động gió
người gầy hơn hoa.
Phân tích
Bài
từ này được sáng tác sau khi Lí Thanh Chiếu và Triệu Minh Thành kết hôn được
2 năm, vì bị hoạ đảng tranh liên luỵ phải về đến quê nhà ở Sơn Đông. Bài từ thuật
lại tình cảm nhớ chồng của một thiếu phụ chốn phòng khuê cô đơn, gặp tiết Trùng
Dương đáng lí ra phải đoàn viên.
“Bạc vụ nùng vân”, từ lúc sáng sớm đến
trưa, thời gian trong mắt của chủ nhân ông đã trở nên đằng đẳng. Trọn ngày dài,
thiếu phụ ngồi một mình nơi góc nhà làm bạn cùng làn khói thong thả nhẹ nhàng
bay ra từ lò hương, gặm mòn nỗi cô liêu cùng nỗi sầu bi vô tận. “Sầu vĩnh trú”
và “thuỵ não tiêu” ngầm hợp với nỗi
vắng vẻ tịch liêu “nhất thốn tương tư nhất
thốn hôi” 一寸相思一寸灰 của
Lí Thương Ẩn. Tiết Trùng Dương là ngày mà mọi người đoàn tụ, cùng nhau lên cao
uống rượu, thế mà tác giả chỉ có một thân. Trong đêm thu mát lạnh, đối diện với
gối chiếc đơn côi, màn sa lạnh lẽo, thân tâm đều lạnh, giấc ngủ chẳng yên.
Đoạn sau tiến thêm một bước tác giả bộc
lộ nỗi tình hoài. Lúc hoàng hôn, một mình bưng chén rượu thưởng hoa cũng tự đau
thương, mong được cùng người mình yêu mến ngắm hoa bên giậu đông. Biết rõ là chẳng
có ai nhưng vẫn “bả tửu hoàng hôn hậu”, dù cho mùi hương tràn đầy cả áo cũng chỉ
biết ngẩn ngơ. Do bởi từ lâu đã không còn tâm cảnh điềm đạm nâng chén rượu bên
giậu đông, nên “lần này” càng cảm thấy cô độc hơn.
Ba câu cuối tả cơn gió tây chợt đến,
thổi cuốn rèm lên, người tựa cửa đứng trông đang mong nhớ, song trùng cô độc bủa
vây, tiều tuỵ hình hài. Chỉ với một chữ “sấu” đã biểu hiện tình tự chủ nhân ông
vì “tâm sấu” mà “hình sấu”. Tỉ dụ lạ kì “nhân tỉ hoàng hoa sấu”, đem sự thể
nghiệm tình cảm, thể nghiệm sinh mệnh của con người tương thông linh khí với
hoa tươi hoa héo, trời đất bốn mùa thay đổi, đã có tác dụng “vẽ rồng điểm nhãn”
trong chỉnh thể cả bài từ, đem chữ “sầu” đẩy đến đỉnh cao.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 30/9/2012
Dịch từ nguyên tác
Trung văn
TUÝ HOA ÂM
醉花阴
Trong quyển
LÍ THANH CHIẾU TỪ THƯỞNG
ĐỘC
李清照词赏读
Biên soạn: Từ Kiến Uỷ
徐建委, Lưu Tranh 刘峥
Tuyến trang thư cục,
2007.
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật